Chẩn đoán viêm cột sống.
Chẩn đoán sớm nhiễm trùng cột sống là rất khó ngay cả khi đã ở trong quá trình bệnh. Nếu nghi ngờ viêm tủy xương, cả nghiên cứu chẩn đoán và nghiên cứu trong phòng thí nghiệm sẽ được tiến hành để đưa ra chẩn đoán chính xác. Đôi khi, phương pháp can thiệpbằng sóng radio hay phẫu thuật can thiệp cũng có thể cần thiết để nuôi cấy vi khuẩn.
Nghiên cứu chẩn đoán
Quá trình chẩn đoán nhiễm trùng cột sống thường bắt đầu bằng chụp X-quang. Chụp X-quang thường sẽ bình thường trong 2 đến 4 tuần đầu sau khi bắt đầu nhiễm trùng. Để những thay đổi kết quả trên X-quang, 50% đến 60% xương trong thân đốt sống cần phải bị phá hủy. Nếu có liên quan đến không gian đĩa đệm, không gian đĩa đệm có thể bị thu hẹp và có thể thấy sự phá hủy các lớp bao xung quanh đĩa đệm trên phim chụp X-quang .
Nghiên cứu hình ảnh đặc hiệu và cụ thể nhất cho nhiễm trùng cột sống là chụp MRI có thuốc nhuộm tĩnh mạch (Gadolinium). Nhiễm trùng sẽ gây ra sự gia tăng lưu lượng máu đến thân đốt sống và điều này sẽ được thu nhận bởi Gadolinium, giúp tăng cường tín hiệu MRI ở những vùng tăng lưu lượng máu.
Các xét nghiệm cũ hơn không đặc hiệu, chẳng hạn như chụp xương, đôi khi vẫn hữu ích, đặc biệt nếu bệnh nhân không thể chụp MRI. Chụp cắt lớp xương khá đáng tin cậy trong việc xác định xem có tăng chu chuyển xương trong cột sống hay không, nhưng không thể phân biệt nhiễm trùng với khối u, chấn thương, hoặc thậm chí đôi khi thay đổi thoái hóa bình thường.
Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cũng nên được quan tâm. Cấy máu có thể xác định sinh vật gây bệnh và giúp định hướng liệu pháp kháng sinh. Cấy máu dương tính có thể ít hơn một nửa thời gian, nhưng khi dương tính, chúng có thể là một chất hỗ trợ rất hữu ích để định hướng điều trị (một số vi khuẩn nhạy cảm với một số loại kháng sinh hơn những vi khuẩn khác).
Dấu hiệu viêm có thể giúp cho biết có bị nhiễm trùng hay không. Tốc độ lắng hồng cầu (ESR) và protein phản ứng C (CRP) là hai dấu hiệu được biết đến nhiều nhất đối với tình trạng viêm, và chúng sẽ tăng cao ở 80% đến 90% bệnh nhân bị viêm tủy xương.
Một xét nghiệm phổ biến khác để phát hiện nhiễm trùng là mức độ bạch cầu, tuy nhiên số lượng bạch cầu có thể bình thường ở 70% bệnh nhân bị viêm tủy xương đốt sống.
Nếu tất cả các dấu hiệu trên đều bình thường thì chưa chắc bệnh nhân đã bị nhiễm trùng.
Nếu bất kỳ điểm đánh dấu nào trong số này tăng lên, nó cũng có thể dùng làm cơ sở và các xét nghiệm tiếp theo đối với các điểm đánh dấu này sẽ cho biết bệnh nhân có đáp ứng với một liệu pháp cụ thể hay không. Nếu các dấu hiệu giảm trong quá trình điều trị, thì việc điều trị có khả năng thành công trong việc loại bỏ nhiễm trùng cột sống.