Là bệnh truyền nhiễm do vi-rút Polio gây ra. Có 3 thể cơ bản của bệnh bại liệt: nhiễm cận lâm sàng, thể nhẹ (không liệt) và bại liệt. Ở thể nghiêm trọng nhất, vi-rút bại liệt gây bại liệt, khó thở và đôi khi tử vong. Bệnh lây lan qua đường tiêu hóa và hô hấp.
Triệu chứng thường gặp:
Đa số trường hợp nhiễm vi-rút Polio không có biểu hiện lâm sàng nhưng để lại miễn dịch đặc hiệu suốt đời.
Khoảng 5% số trường hợp có biểu hiện giống cảm cúm như: mệt mỏi, nhức đầu, đỏ họng, sốt nhẹ, đau họng, nôn mửa, tiêu chảy, đau ở tay và chân.
Bại liệt bất toại: nhức đầu, sốt, táo bón, đau cổ, yếu, tê liệt.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Các xét nghiệm để xác định sự lây nhiễm và mức độ của bệnh bao gồm: chọc ống sống thắt lưng, kiểm tra dịch não tủy, xét nghiệm mức độ của kháng thể với vi-rút bại liệt, nuôi cấy dịch mẫu các chất tiết họng, phân hay dịch não tủy để kiểm tra sự hiện diện của vi-rút Polio.
Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC), xét nghiệm bảng chuyển hóa toàn diện (CMP).
Bệnh bại liệt là một bệnh nhiễm vi-rút cấp tính lây truyền theo đường tiêu hoá do vi-rút Polio (Poliovirus) gây nên, có thể lan truyền thành dịch. Bệnh được nhận biết qua biểu hiện của hội chứng liệt mềm cấp. Vi-rút Polio sau khi vào cơ thể sẽ đến hạch bạch huyết, tại đây một số ít vi-rút Polio xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương gây tổn thương ở các tế bào sừng trước tủy sống và tế bào thần kinh vận động của vỏ não.
Tỷ lệ mắc bại liệt cao nhất ở trẻ dưới 3 tuổi, tỷ lệ này càng thấp ở những tuổi càng lớn hơn. Tuy nhiên, trong những vụ dịch gần đây, tỷ lệ mắc bệnh ở lứa tuổi trên 15 tuổi tăng lên rõ rệt. Lý do khiến bại liệt hay thấy ở trẻ dưới 3 tuổi là do sự lưu hành rộng rãi của vi-rút Polio. Một số lớn trẻ đang bú mẹ hãy còn miễn dịch do mẹ truyền sang nên nếu có nhiễm vi-rút thì cũng không có biểu hiện lâm sàng rõ rệt và ít để lại di chứng.
Khả năng đáp ứng miễn dịch týp sau phơi nhiễm sẽ tồn tại suốt đời, kể cả mắc bệnh thể ẩn. Vì vậy sẽ không bị bệnh lần 2 với cùng một týp vi-rút.
Trẻ nhỏ được thừa hưởng đáp ứng miễn dịch của mẹ truyền qua. Vắc-xin bại liệt được sử dụng đúng qui cách và áp dụng rộng rãi ở cộng đồng sẽ để lại miễn dịch lâu bền, góp phần quan trọng trong công tác loại trừ bệnh này.
Nguyên tắc điều trị: Bệnh bại liệt là bệnh lây nhiễm do vi-rút nên chưa có các biện pháp điều trị đặc hiệu, bệnh nhân được:
Bất động hoàn toàn.
Tăng cường và nâng cao thể trạng bằng sinh tố và dịch truyền.
Hỗ trợ hô hấp, nếu có dấu hiệu của liệt tủy.
Điều trị kháng sinh nếu có bội nhiễm vi khuẩn, cụ thể theo chỉ định của bác sĩ lâm sàng.
Phục hồi chức năng và khắc phục di chứng (rất quan trọng sau khi lui bệnh).
Bảo vệ người tiếp xúc:
Thực hiện vệ sinh chung, cá nhân, an toàn thực phẩm.
Uống vắc-xin OPV dự phòng.