Tóm tắt bệnh Chảy máu cam

Các tên gọi khác của bệnh này:

  • Chảy máu mũi

Chảy máu cam hay còn gọi là chảy máu mũi, nguyên nhân phổ biến nhất là chấn thương do ngón tay và dị vật trong mũi hoặc do khô niêm mạc mũi. Hầu hết chảy máu là ở phần phía trước của mũi dọc theo vách ngăn mũi do khu vực tập trung các động mạch nhỏ và tĩnh mạch mũi. Có khoảng 95% số ca chảy máu mũi ở mũi trước, thường nhẹ tự cầm trước khi đến bệnh viện, do chảy máu ở vùng điểm mạch Kiesselbach. Trường hợp máu chảy ở vùng vách ngăn mũi sau hay thành ngoài sau mũi có nguồn gốc từ động mạch thì máu chảy nhiều, khó cầm máu, có thể phải nhập viện.

Triệu chứng

Chảy máu từ mũi; máu cũng có thể nhỏ vào phần sau họng hoặc xuống đến dạ dày làm bệnh nhân khạc nhổ hoặc thậm chí nôn ra máu.

Chẩn đoán

Hỏi bệnh sử và khám thực thể, tập trung khám phần mũi.

  • Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC).

  • Xét nghiệm có thể bổ sung: xét nghiệm protime, xét nghiệm thromboplastin từng phần

Điều trị

Trường hợp máu chảy ở vùng vách ngăn mũi sau hay thành ngoài sau mũi có nguồn gốc từ động mạch cần phải nội soi mũi để xác định chính xác vị trí chảy máu, từ đó đưa ra phương pháp điều trị phù hợp như điều trị bằng phương chấm nitrat bạc, đốt điện, đốt laser, nhét mũi trước bằng quả bóng... Dùng thuốc co mạch, thuốc đông máu, vitamin K…

Tổng quan bệnh Chảy máu cam

Định nghĩa

Chảy máu cam hay còn gọi là chảy máu mũi, là tình trạng bệnh lý thuộc vùng tai mũi họng khá phổ biến ở trẻ em. Chảy máu cam tuy ít nguy hiểm đến tính mạng, nhưng dễ làm bệnh nhân và người nhà hốt hoảng, lo lắng.

Phân loại

  • Theo số lượng máu chảy

    • Chảy máu nhẹ: máu đỏ tươi nhỏ từng giọt, số lượng ít hơn 100ml, thường ở điểm mạch.

    • Chảy máu vừa: máu chảy thành dòng ra ngoài cửa mũi hoặc chảy xuống họng, số lượng từ 100 - 200ml.

    • Chảy máu nặng: máu chảy nhiều kéo dài, bệnh nhân có thể ở trong trạng thái kích thích, hốt hoảng, vã mồ hôi, môi mặt xanh nhợt, mạch nhanh huyết áp hạ, số lượng máu mất nhiều hơn 200 ml.

  • Theo vị trí

    • Chảy máu ở điểm mạch Kisselbach: chảy máu ít, có xu hướng tự cầm, thường gặp viêm tiền đình mũi, trẻ em hay ngoáy mũi.

    • Chảy máu mao mạch: toàn bộ niêm mạc mũi rỉ máu, gặp ở những bệnh nhân bị bệnh về máu như bệnh ưa chảy máu, bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn…

    • Chảy máu động mạch: chảy máu ở động mạch sàng trước, động mạch sàng sau, động mạch bướm khẩu cái… chảy máu nhiều không tự cầm, thường chảy ở sâu và cao.

Điều trị bệnh

Trước một bệnh nhân chảy máu mũi, việc đầu tiên là phải cầm máu, sau đó mới tìm nguyên nhân. Đối với những trường hợp chảy máu nặng phải chú ý đến tình trạng toàn thân của bệnh nhân (theo dõi sát mạch, huyết áp).

Điều trị toàn thân

  • Để bệnh nhân nghỉ ngơi yên tĩnh, ngồi hoặc nằm đầu cao, há miệng để nhổ máu ra.

  • Truyền dịch nếu có trụy mạch, huyết áp.

  • Truyền máu nếu Hb hạ dưới 50%, truyền máu là một biện pháp tích cực, đặc biệt trong trường hợp chảy máu nặng, tốt nhất là truyền máu tươi liều nhỏ (100ml) nhiều lần.

  • Corticoid: nếu không có chống chỉ định dùng corticoid, phần lớn các tác giả đều cho rằng sử dụng corticoid trong chảy máu là cần thiết, thường tiêm tĩnh mạch như depersolone.

  • Kháng sinh: đề phòng xuất tiết ứ đọng sẽ gây viêm nhiễm ở mũi và các bộ phận kế cận.

  • Thuốc đông máu: làm tăng vững bền thành mạch, giảm thời gian chảy máu như Adrenoxyl, Premarin... hoặc trực tiếp làm đông máu như vitamin K, Sulfate de protamine.

Điều trị tại chỗ

Cầm máu tại chỗ được thực hiện từ đơn giản đến phức tạp theo các bước sau:

  • Đè ép cánh mũi vào vách mũi: dùng hai ngón tay bóp nhẹ cánh mũi ép vào vách ngăn tương ứng điểm mạch Kisselbach trong vài phút, áp dụng trong trường hợp chảy máu ít, chảy máu ở điểm mạch Kisselbach.

  • Dung dịch cầm máu: dùng bông có tẩm dung dịch cầm máu như ôxy già 12 thể tích, éphedrin 1-3% đè lên chỗ chảy máu.

  • Hạt trai nitrat bạc (AgNO3): dùng một que trâm đầu tù nướng đỏ ở đầu, chấm vào dung dịch nitrat bạc đậm độ 5%, muối bạc sẽ chảy ra và đọng lại thành một hạt nhỏ óng ánh ở đầu que trâm, dí hạt trai vào chỗ đang chảy máu.

  • Nhét mechè mũi trước: sau khi gây tê hốc mũi, dùng cuộn mechè có bề rộng 1-1,5cm, bề dài 50cm tẩm mở kháng sinh hoặc dầu parafin nhét vào mũi. Chú ý nhét có hình đáy võng để mechè không bị tụt xuống thành sau họng, nhét chặt từ sau ra trước cho tới khi đầy ra tận cửa mũi trước. Dùng đè lưỡi kiểm tra xem máu có chảy xuống thành sau họng hay không, nếu không thấy chảy xuống là tốt. 

  • Thời gian lưu mechè: 24 - 48 giờ.

  • Những trường hợp chảy máu nhiều do chấn thương, cao huyết áp…, nếu nhét mechè mũi trước không thành công, cần phải nhét mechè mũi sau.

    • Nhét mechè mũi sau: dùng cục gạc bịt kín cửa mũi sau để ngăn không cho máu chảy xuống thành sau họng. Vì vậy, phải sử dụng cục gạc to tương ứng với vòm mũi họng, đường kính cục gạc khoảng 2-2,5cm, chiều cao 2,5cm có buột dây ở giữa, mỗi đầu dài 30cm. Sau khi bịt kín được cửa mũi sau, ta tiếp tục nhét mechè mũi trước.

  • Che mũi sau lưu lại khoảng 48-72 giờ, trong thời gian này phải điều trị kháng sinh.

  • Những trường hợp chảy máu mao mạch, nhất là ở trẻ em, có thể dùng các loại protein tự tiêu có tác dụng cầm máu như spongel (gélaspon). Hiện nay ở nhiều nước, người ta dùng Merocel là một loại bọt sốp có hình hố mũi. Khi cho vào mũi, tưới nước, nó nở căng to ôm khít lòng hố mũi, máu cầm ngay mà bệnh nhân không đau. Hoặc làm bong bóng cao su cho vào mũi rồi bơm căng, lúc lấy ra chỉ cần xì hơi, rất tiện.

  • Ngày nay dùng đông điện dưới sự hướng dẫn của nội soi để cầm máu đã được áp dụng rộng rãi. Các động mạch có thể được gây tắc mạch qua thông mạch chọn lọc đem lại kết quả tốt.

  • Nút mạch: Nếu các biện pháp trên không có hiệu quả.

  • Thắt động mạch: Nếu các cách cầm máu trên không làm máu ngừng chảy, ta có thể thắt các động mạch sau: động mạch cảnh ngoài, động mạch hàm trong, động mạch sàng trước, động mạch sàng sau.

Điều trị nguyên nhân

Sau khi đã cầm máu tại chỗ, cần tìm nguyên nhân để điều trị.

Các câu hỏi liên quan bệnh Chảy máu cam