Bệnh dại là một bệnh do virus gây tử vong truyền sang người từ động vật bị nhiễm bệnh. Bệnh lây truyền chủ yếu do các chất tiết bị nhiễm, thường do vết cắn, vết liếm của động vật mắc bệnh dại.
Dại là virus ái thần kinh, ảnh hưởng trực tiếp lên não, một khi các triệu chứng xuất hiện gần như luôn gây tử vong nên phòng ngừa và tiêm chủng của các bệnh nhân tiếp xúc với động vật bị nghi ngờ mắc bệnh dại là rất quan trọng.
Bệnh nhân bị nhiễm virus bệnh dại thường không có biểu hiện gì cho đến trước lúc hấp hối: Sốt, Nhức đầu, lo lắng, lú lẫn, ảo giác, khó nuốt, khó ngủ, chảy nước dãi.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Bệnh nhân có thể được chỉ định xét nghiệm máu để xác định có nhiễm virus dại hay không.
Gây nhiễm:
Virus dại xâm nhập vào cơ thể người từ động vật bị dại qua vết cắn, vết xước, vết liếm trên lớp da, niêm mạc bị tổn thương. Ở một số súc vật ăn thịt, trong nước bọt của chúng có nhiều Enzym Hyaluronidaze là yếu tố có thể giúp cho virus dại lan toả nhanh hơn tới hệ thần kinh. Là một virus ái thần kinh, sau khi xâm nhập nó tồn tại, nhân lên tại vết thương từ vài giờ cho tới vài tuần. Sau đó nhanh chóng đi tới các đầu mút thần kinh cảm giác và vận động của hệ thần kinh ngoại biên rồi chuyển tới hệ thần kinh trung ương. Vì thế virus dại chỉ tiếp xúc thoáng qua với hệ miễn dịch, mặc dù gần đây có công trình cho rằng sự âm hoá virus dại khỏi hệ thần kinh qua kháng thể trung gian là có thể xảy ra. Khi đã có mặt ở trong nơron của hệ thần kinh ngoại biên, virus được vận chuyển trong acxon bằng dòng phản hồi của tế bào sợi acxon với tốc độ 0,3 mm/giờ tới hệ thần kinh trung ương, nơi nó tiếp tục được nhân lên. Phần cuống não bị nhiễm trước tiên, sau đó tới vùng dưới đồi và cuối cùng đến phần vỏ não bị tổn thương. Tuy nhiên, vào giai đoạn nhiễm cuối thì toàn bộ hệ thần kinh trung ương cũng như một số mô ngoài như tuyến nước bọt cũng bị nhiễm virus, nhưng cơ chế nhân lên cũng bắt đầu vào thời điểm nào thì chưa rõ. Khi xâm nhập và nhân lên trong tế bào thần kinh, virus dại gây tổn thương não tuỷ ở các mức độ nặng nhẹ mà biểu hiện lâm sàng sẽ khác nhau.
Ủ bệnh:
Thời kỳ ủ bệnh tương ứng với sự di chuyển và nhân lên của virus. Thời gian này dài hay ngắn tuỳ thuộc vào quãng đường phải đi qua từ nơi vết cắn đến thần kinh trung ương. Thời gian ủ bệnh trung bình là 30 - 90 ngày (80% trường hợp), có những trường hợp nhanh dưới 20 ngày (5 - 10% trường hợp) hoặc chậm hơn 3 tháng (7 - 20% trường hợp). Thậm chí kéo dài hơn cả năm (1,8% trường hợp). Thời gian ủ bệnh ngắn nhất được tìm thấy khi vết cắn ở đầu, mặt, tay và đặc biệt là đối với trẻ em.
Điều trị nguyên nhân.
Chăm sóc phần cơ thể bị liệt.
Luôn đặt chi ở tư thế sinh lý.
Xoa bóp, tập vận động sớm.
Đề phòng bị loét bằng cách thay đổi liên tục tư thế nằm, nằm đệm nước hoặc đệm không khí có ngăn.
Đề phòng nhiễm khuẩn thứ phát (đường hô hấp, tiết niệu...).
Chế độ dinh dưỡng đầy đủ.