Là bệnh truyền nhiễm xảy ra chủ yếu ở vùng nhiệt đới, gây ra bởi các vi khuẩn Treponema pallidum. Bệnh ảnh hưởng đến da và xương. Có ba giai đoạn của bệnh. Giai đoạn cuối cùng là nghiêm trọng nhất, có thể gây biến dạng khuôn mặt. Tuy nhiên, chỉ có 10% các trường hợp tiến triển đến giai đoạn này.
Triệu chứng thay đổi tùy thuộc vào giai đoạn của bệnh. Giai đoạn đầu: phát ban mâm xôi đơn xảy ra ở chân hoặc mông. Có thể kèm sưng hạch bạch huyết. Giai đoạn hai: nổi mẩn nâu trên mặt, cánh tay, chân và mông. Các triệu chứng khác trong giai đoạn này bao gồm lở loét, gây đau đớn trong lòng bàn chân, đau xương, đau khớp. Giai đoạn thứ ba, bệnh gây biến dạng khuôn mặt.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Xét nghiệm máu, sinh thiết mô.
Kiểm tra bổ sung có thể được yêu cầu
Sử dụng thuốc kháng sinh. Dùng Penicillin hoặc Tetracycline cho bệnh nhân dị ứng với Penicillin.
Bệnh ghẻ cóc (Yaws, Frambesia tropica, Pian) là tình trạng nhiễm trùng ở da, xương và khớp gây ra bởi xoắn khuẩn Treponema pallidum pertenue. Bệnh ghẻ cóc đã ảnh hưởng đến con người từ thời cổ đại, trên 1,5 triệu năm qua. Bệnh được cho là có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới của châu Phi và lây lan sang các khu vực nhiệt đới khác trên thế giới do tình trạng nhập cư và buôn bán nô lệ. Ghẻ cóc lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp ngoài da, chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em <15 tuổi, nhiều nhất ở nhóm trẻ 6-10 tuổi. Tương tự như giang mai, ghẻ cóc là một căn bệnh mãn tính tái phát có thể kéo dài trong nhiều năm.
Penicillin là thuốc lựa chọn cho điều trị bệnh ghẻ cóc. Sau khi tiêm Penicilin liều duy nhất, các tổn thương ban đầu sẽ sạch khuẩn sau 24 giờ và lành trong vòng 1-2 tuần. Tetracycline, Erythromycin, Doxycycline có thể được dùng cho các bệnh nhân dị ứng với Penicillin.
Chương trình mới nhằm thanh toán ghẻ cóc đã được đề xuất vào năm 2012 dựa theo kết quả của nghiên cứu Azithromycin được thực hiện ở Papua New Guinea như trên. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) hy vọng rằng chiến dịch mới này có thể loại bỏ hoàn toàn bệnh ghẻ cóc trên toàn thế giới vào năm 2020.
Nếu >50% trẻ em có huyết thanh dương tính (Hyperendemic), điều trị toàn bộ dân số.
Nếu 10-50% trẻ em có huyết thanh dương tính (Mesoendemic), điều trị các trường hợp bệnh hoạt tính, người tiếp xúc và tất cả trẻ em ≤15 tuổi.
Nếu <10% trẻ em có huyết thanh dương tính (Hypoendemic), điều trị các trường hợp bệnh hoạt tính, các thành viên trong gia đình và những người tiếp xúc được xác định rõ ràng.