Là bệnh lý mở rộng các ống phế quản, thường do viêm tái phát hoặc nhiễm trùng đường hô hấp gây ra. Bệnh thường xuất hiện trong thời thơ ấu do biến chứng từ nhiễm trùng hoặc hít phải vật lạ, nhưng có thể phát triển ở mọi lứa tuổi.
Ho, đờm nhuốm máu, khó thở, thở khò khè, mệt mỏi.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Chụp X-quang và CT scan.
Phân tích đờm có thể được thực hiện để loại trừ vi khuẩn, nấm hay bệnh lao (TB) lây nhiễm.
Thuốc giãn phế quản (Albuterol, Ipratropium), Expectorants và kháng sinh. Phẫu thuật cắt bỏ phần phổi bị ảnh hưởng có thể được thực hiện trong một số trường hợp.
Giãn phế quản là bệnh lý khá thường gặp. Hầu hết các bệnh nhân giãn phế quản có triệu chứng lâm sàng điển hình như ho, khạc đờm mủ kéo dài; tuy nhiên, cũng có nhiều bệnh nhân xuất hiện giãn phế quản không hề có triệu chứng, hoặc có triệu chứng giống hen phế quản... Vậy giãn phế quản là gì?
Giãn phế quản là tình trạng giãn không hồi phục của cây khí phế quản, có thể giãn phế quản chỉ khu trú ở một vùng của phổi, tuy nhiên, phần lớn các trường hợp giãn phế quản là giãn lan tỏa, bị cùng lúc khắp các vị trí lòng phế quản ở cả hai bên.
Do lòng phế quản bị giãn rộng, các lông chuyển ở đường hô hấp bị tổn thương, ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc vận chuyển đờm và các chất tiết đường hô hấp ra ngoài.
Khi chất tiết, dịch đường hô hấp bị ứ đọng lại sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhiễm trùng đường hô hấp, quá trình nhiễm trùng này lại gây tổn thương niêm mạc đường thở, làm cho tình trạng giãn phế quản ngày một nặng thêm.
Bệnh giãn phế quản không thể điều trị khỏi hoàn toàn, các bệnh nhân thường chỉ đến viện mỗi khi có đợt cấp, việc điều trị tại bệnh viện do vậy chính là điều trị đợt bội nhiễm của giãn phế quản. Khi ở nhà, các bệnh nhân cần thường xuyên vỗ rung ngực và thực hiện các biện pháp ngăn ngừa đợt cấp.
Các điều trị giãn phế quản bao gồm:
Dùng kháng sinh mỗi khi có đợt bội nhiễm của giãn phế quản. Các tiêu chí đánh giá đợt bội nhiễm của giãn phế quản bao gồm:
Ho khạc đờm tăng.
Khạc đờm mủ, màu xanh hoặc vàng.
Bệnh nhân giãn phế quản có hội chứng nhiễm trùng rõ sau khi đã loại trừ nhiễm trùng do căn nguyên khác.
Những trường hợp không có các dấu hiệu nêu trên nhưng có ho ra máu cũng chỉ định dùng kháng sinh.
Thời gian dùng kháng sinh thường từ 10-15 ngày. Những trường hợp giãn phế quản rất nặng, thời gian dùng kháng sinh có thể kéo dài hơn, thậm chí tới 1 tháng.
Dẫn lưu đờm. Là liệu pháp điều trị rất quan trọng, có tầm quan trọng như dùng kháng sinh. Biện pháp dẫn lưu đờm được thực hiện như sau:
Hướng dẫn cho bệnh nhân cách ho, khạc đờm sâu và vỗ rung lồng ngực, kết hợp dẫn lưu tư thế hàng ngày. Tùy theo vị trí giãn phế quản mà lựa chọn tư thế cho phù hợp với nguyên tắc vùng giãn phế quản được đặt ở vị trí cao nhất. Vùng giãn phế quản ở phía sau: bệnh nhân được đặt nằm xấp, vùng giãn phế quản ở phía trước: bệnh nhân được đặt nằm ngửa... Sau đó dùng hai bàn tay khum lại, vỗ đều vào ngực bệnh nhân. Kết hợp rung và lắc ngực. Mỗi lần làm kéo dài 15-20 phút, ngày làm từ 2-3 lần. Việc vỗ rung và dẫn lưu tư thế tiếp tục được duy trì tại nhà cho bệnh nhân. Nên đóng ghế vỗ rung để việc vỗ rung được thuận tiện hơn.
Điều trị hội chứng xoang phế quản nếu có (bệnh nhân giãn phế quản có kèm và viêm đa xoang mạn tính). Có thể cho bệnh nhân uống Erythromycine 10 mg/kg/ngày, chia 2 lần, kéo dài từ 6-24 tháng nếu bệnh nhân không bị các tác dụng phụ của thuốc. Không dùng đồng thời với Theophyllin hoặc các thuốc cùng nhóm Xanthin do gây xoắn đỉnh.
Điều trị triệu chứng
Khi bệnh nhân có khó thở, nghe phổi có ran rít, ngáy, bệnh nhân thường được dùng thêm các thuốc giãn phế quản dùng đường uống hoặc khí dung hoặc kết hợp cả hai. Các thuốc có thể được dùng bao gồm: Salbutamol, Terbutaline, thuốc kháng Cholinergic, Theophylline, Bambuterol...
Khi bệnh nhân có ho ra máu:
Bệnh nhân thường được dùng kháng sinh, dùng thuốc cầm máu, an thần. Trường hợp ho máu nặng, bệnh nhân có thể cần được thở oxy, đặt nội khí quản hoặc nội soi phế quản để hút máu đọng. Truyền máu khi có thiếu máu.
Những trường hợp ho máu điều trị không hiệu quả với thuốc cần được chỉ định chụp động mạch phế quản và xét nút tắc động mạch phế quản gây chảy máu.
Điều trị nội soi: Soi phế quản ống mềm để chẩn đoán vị trí chảy máu, giải phóng đờm dịch, giải phóng dị vật gây tắc phế quản. Trong quá trình soi tiến hành hút dịch phế quản làm xét nghiệm vi sinh vật, bơm rửa lòng phế quản.
Phẫu thuật
Chỉ định cắt phân thuỳ hoặc cả bên phổi cho những trường hợp giãn phế quản khu trú; giãn phế quản có ho máu nặng hoặc ho máu tái phát.