Hăm là tình trạng viêm da ở vùng tã lót. Tình trạng yếm khí, sự tiếp xúc với axit của nước tiểu và phân khiến các lớp bảo vệ của da ở vùng tã lót bị suy yếu, nhiễm nấm men, vi khuẩn, gây hiện tượng hăm. Hăm tã là tình trạng kích thích da phổ biến ở trẻ sơ sinh. Trẻ em sử dụng tã giấy ít bị hăm hơn những trẻ sử dụng tã vải.
Bao gồm đau, ngứa, đỏ da, khó chịu và đôi khi sốt.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Xét nghiệm máu.
Phân tích nước tiểu (UA)
1. Giữ cho da được khô ráo bằng cách thay tã thường xuyên hơn, sử dụng tã có độ thấm hút tốt hơn và dùng kem chống hăm có chứa oxit kẽm.
2. Các thuốc khác có thể được sử dụng để làm giảm tình trạng viêm, giúp điều trị nấm men và vi khuẩn.
Hăm là tình trạng viêm của các nếp gấp da, gây nên do nhiệt độ, độ ẩm, ma sát hay thiếu sự lưu thông không khí.
Hăm thường là cơ hội cho nhiễm trùng thứ phát, hay gặp nhất là nấm candida, nhưng cũng có thể là vi khuẩn hoặc virút.
Hăm thường xuất hiện ở nách, cổ, nếp khuỷu tay, vùng bẹn và nếp gấp bụng.
Hăm cũng là một biến chứng thường gặp trong bệnh béo phì và tiểu đường.
Clotrimazole 1% thoa 2-3 lần/ngày trong 2-4 tuần hoặc Miconazole 2% thoa 2-3 lần/ngày trong 2-4 tuần.
Trường hợp lở loét nên sử dụng thuốc mỡ tra làm liền vết thương, lấp đầy ổ loét như thuốc chứa Acid linoleic (dùng 2-3 lần/ngày).
Trường hợp viêm vẫn kéo dài hơn 2-3 tuần cần đến bệnh viện, khi đó bác sĩ điều trị sẽ thay thế một thuốc thoa kháng nấm khác hoặc có chỉ định thuốc kháng nấm đường uống tùy tình trạng cụ thể.
Dùng thuốc mỡ hoặc kem chống hăm không gây kích ứng, chứa thành phần Acid linoleic (dùng 2-3 lần/ngày) để bảo vệ và làm trơn vùng da bị hăm cho bé sau mỗi lần thay bỉm.
Vệ sinh sạch sẽ, lau khô cơ thể trước khi bôi thuốc chống hăm cho bé. (Cần rửa sạch lớp kem đã bôi trước đó).
Lưu ý: Không dùng ngón tay đã thoa thuốc lên vết hăm để lấy thuốc tiếp, không dùng chung 1 lọ thuốc chống hăm cho nhiều bé. Sau vài ngày không có chuyển biến tốt cần đưa bé đến bệnh viện gặp bác sĩ da liễu.