Loãng xương (Osteoporosis) là một rối loạn chuyển hoá của bộ xương gây tổn thương sức mạnh của xương đưa đến tăng nguy cơ gẫy xương. Ở người bị loãng xương, ngồi xuống đột ngột, ho, hoặc cúi xuống cũng có thể gây gãy xương. Các khu vực dễ bị gãy xương là ở lưng (cột sống), cổ tay và hông. Loãng xương là hậu quả của sự phá vỡ cân bằng bình thường của 2 quá trình tạo xương và hủy xương, quá trình tạo xương suy giảm trong khi quá trình hủy xương bình thường. Các yếu tố có thể làm căn bệnh này trầm trọng thêm bao gồm: dinh dưỡng kém, hút thuốc lá, hóa trị, xạ trị, các thuốc như steroid, lười vận động, uống rượu.
Loãng xương có tính gia đình. Bất cứ ai cũng có thể bị bệnh loãng xương, nhưng nó phổ biến hơn ở phụ nữ lớn tuổi.
Đau xương thường xuyên ở lưng, hông, tay và cổ tay. Gù vẹo cột sống, giảm chiều cao so với lúc trẻ (do các đốt sống bị lún, xẹp hoặc bị gãy lún).
Thực hiện khai thác bệnh sử và khám thực thể. Rối loạn này được chẩn đoán bằng cách đo mật độ xương của bệnh nhân. Xét nghiệm thường được sử dụng nhất là chụp DEXA. Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC), xét nghiệm bảng chuyển hóa toàn diện (CMP), xét nghiệm nồng độ TSH - hormon kích thích tuyến giáp. Bệnh nhân có thể được chỉ định thực hiện thêm chụp cắt lớp vi tính (CT Scan), chụp cộng hưởng từ (MRI) và siêu âm.
Chúng ta đều biết, quá trình hủy và tạo xương luôn diễn ra liên tục trong cơ thể, nếu quá trình này cân bằng thì mật độ xương sẽ bình thường. Nếu quá trình hủy xương lớn hơn tạo xương sẽ dẫn đến loãng xương.
Tuy nhiên, nếu quá trình hủy và tạo xương cân bằng nhưng diễn ra quá nhanh (chu chuyển xương nhanh) thì gây ra giảm sức mạnh của xương. Do vậy, sức mạnh của xương là một thông số rất quan trọng, thậm chí còn quan trọng hơn mật độ xương.
Các thông số về sức mạnh của xương hiện đang được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm để tìm ra các chỉ số có thể ứng dụng trên lâm sàng.
Hiện nay mật độ xương vẫn là tiêu chuẩn vàng để đánh giá sớm nhất tình trạng loãng xương và dự đoán gãy xương trên lâm sàng.
Bệnh loãng xương diễn biến từ từ và thầm lặng. Người bị loãng xương thường không biết mình bị bệnh cho đến khi bị biến chứng gãy xương. Gãy xương do loãng xương thường gặp nhất ở cổ tay, đốt sống và cổ xương đùi.
Gãy xương do loãng xương có thể xảy ra ngay cả trong những hoạt động hàng ngày, làm cho người bệnh đau đớn, mất khả năng vận động, mất khả năng sinh hoạt tối thiểu.
Bệnh loãng xương dễ chẩn đoán. Khi đã bị loãng xương, điều trị có thể làm giảm 50% nguy cơ gãy xương nhưng điều quan trọng là phải chẩn đoán sớm và điều trị sớm để ngăn ngừa không cho gãy xương do loãng xương xảy ra.
Điều trị loãng xương rất tốn kém (chi phí trực tiếp và gián tiếp). Bệnh loãng xương có thể phòng ngừa.
Loãng xương có thể phân thành:
Chi phí cho điều trị loãng xương
Các chi phí y tế để điều trị các biến chứng gãy xương do loãng xương bao gồm:
Chi phí nằm viện để điều trị gãy xương: Kết hợp xương, thay chỏm xương đùi, nẹp vít cột sống…
Chi phí điều trị các biến chứng do nằm lâu ở người có tuổi bị gãy xương (vì phải bất động chỗ xương gãy, vì không vận động được) như viêm phổi, viêm đường tiết niệu, loét tư thế…
Chi phí cho các thuốc điều trị tích cực bệnh loãng xương (Bisphosphonate và/hoặc Calcitonin và/hoặc hormone hay các thuốc giống hormone) trong suốt quãng đời còn lại của người bệnh để tránh tái gãy xương.
Các thuốc điều trị loãng xương
Các thuốc chống hủy xương: Là nhóm thuốc quan trọng nhất trong điều trị loãng xương vì làm giảm hoạt tính của tế bào hủy xương và làm giảm chu chuyển xương.
Nhóm hormone và các thuốc giống hormone: Là nhóm thuốc có tác dụng ức chế hoạt động của các tế bào hủy xương.
Nhóm hormon sinh dục nữ (như oestrogen) dùng để phòng ngừa và điều trị loãng xương cho phụ nữ sau mãn kinh:
Oestrogen (biệt dược Premarin)
Oertrogen và progesterone (biệt dược Prempak C, Prempro…)
Thuốc giống hormone: Tibolol (biệt dược Livial)
Thuốc điều hòa chọn lọc thụ thể oestrogen (SERMs): Raloxifene (biệt dược Evista)
Nhóm hormon sinh dục nam (Androgen) dùng để phòng ngừa và điều trị loãng xương cho nam giới sau tắt dục: testosrerone (Biệt dược Andriol).
Nhóm Bisphosphonate: Bisphosphonate là nhóm thuốc mới được sử dụng từ đầu thập niên 90, có tác dụng làm tăng khối lượng và độ cứng của xương, đặc biệt ở cột sống, giảm đáng kể nguy cơ gãy xương do loãng xương. Có rất nhiều loại như: Pyrophosphate, Clodronate, Tiludronate, Pamidronate, Etidronate, Alendronate, Risedronate… Hiện nay 3 loại bisphosphonate đang được sử dụng rộng rãi trên giới là Etidronate (Difosfen), Alen dronate (Fosamax) và Risedronate (Actonel). Thuốc còn có thể sử dụng để phòng ngừa cho những đối tượng có nguy cơ cao bị loãng xương (phụ nữ sau mãn kinh, bệnh nhân phải sử dụng thuốc kháng viêm corticosteroid kéo dài…).
Calcitonin: Calcitonin là một chuỗi các acid amin từ cá hồi, có tác dụng chống hủy xương, giảm đau do hủy xương và làm giảm chu chuyển xương.
Cơ chế tác dụng: Gắn kết với các thụ thể đặc hiệu trên hủy cốt bào làm giảm số lượng và hoạt động của hủy cốt bào.
Hiệu quả của thuốc: giảm tỷ lệ gãy xương và giảm đau do hủy xương.
Các thuốc tăng tạo xương
Hormone cận giáp: rPTH 2 mcg TDD/ngày, là thuốc duy nhất được công nhận là tăng tạo xương thực sự (11/2002).
Calcium và vitamin D: để cung cấp nguyên liệu cho việc tạo xương mới, kích thích hoạt động của tế bào sinh xương.
Vitamin D hoặc chất chuyển hoá của vitamin D (Calcitriol – Rocaltrol) giúp cho việc sử dụng calcium hiệu quả hơn.
Calcium nhằm cung cấp những nguyên vật liệu để bổ sung cho xương khi chế độ ăn không đáp ứng đủ hoặc khi cơ thể không hấp thu đầy đủ.
Thuốc tăng đồng hoá (Durabolin, Deca-durabolin) có tác dụng tăng cường hoạt tính của tế bào sinh xương, tăng cường chuyển hoá protein.
Trên thực tế các thuốc chống hủy xương cũng có tác dụng tăng tạo xương và các thuốc tăng tạo xương cũng có tác dụng chống hủy xương.
Sử dụng các thuốc điều trị loãng xương
Kết hợp thuốc chống hủy xương và thuốc tăng tạo xương:
Bisphosphonate + canxi và vitamin D
Calcitonin + canxi và vitamin D
Hormone thay thế + canxi và vitamin D
Kết hợp các thuốc chống hủy xương và thuốc tăng tạo xương:
Isphosphonate + hormone thay thế + canxi và vitamin D
Calcitonin + hormone thay thế + canxi và vitamin D
Biphosphonate + calcitonin + hormone thay thế + canxi và vitamin D