Là một rối loạn dẫn đến tắc nghẽn mãn tính đường dẫn khí trong phổi. Hai loại phổ biến nhất của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) là bệnh khí thũng và viêm phế quản mãn tính. Nguyên nhân chính là do hút thuốc lá. Các mức độ và triệu chứng của bệnh có thể rất khác nhau.
Khó thở, ho, ho có đờm, đau ngực, thở khò khè, mệt mỏi, da xanh.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Chụp X-quang, CT Scan phổi, xét nghiệm chức năng phổi (PFTs), xét nghiệm khí máu động mạch (ABG) đo lượng ôxy trong máu sẽ được thực hiện để xác định mức độ của bệnh.
Điều trị tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng, có thể bao gồm:
Dùng thuốc giãn phế quản (như Albuterol hoặc Atrovent), Steroids, và/hoặc thuốc kháng sinh.
Phẫu thuật loại bỏ các phần của phổi bị ảnh hưởng nghiêm trọng và/hoặc ghép phổi.
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, hay COPD, là tình trạng tắc nghẽn đường dẫn khí lâu ngày kèm với viêm phế quản mãn, khí phế thũng, hay cả hai. Tình trạng tắc nghẽn này tăng dần theo thời gian.
Viêm phế quản mãn tính được định nghĩa là tình trạng ho kéo dài không gây ra bởi những nguyên nhân khác và có đờm từ 3 tháng trở lên mỗi năm trong vòng 2 năm liên tiếp. Ở bệnh viêm phế quản mãn tính, các tuyến tiết nhầy ở phổi trở nên lớn hơn. Đường dẫn khí bị viêm và thành phế quản dày lên. Những thay đổi trên và sự biến mất của các phế nang gắn với chúng làm giới hạn thông khí do các thành ống dẫn khí bị méo mó và lòng ống dẫn khí bị hẹp lại.
Khí phế thũng là tình trạng tăng kích thước vĩnh viễn một cách bất thường của các túi khí (phế nang) nằm ở cuối đường dẫn khí của phổi. Khí phế thũng cũng phá hủy thành của các phế nang. Có 3 dạng khí phế thũng: khí phế thũng trung tâm, khí phế thũng toàn thể và khí phế thũng ngoại biên.
Theo một nghiên cứu vào năm 1985, tỷ lệ tử vong do COPD ở những bệnh nhân 55 - 84 tuổi vào khoảng 200/100.000 người đối với nam và 80/100.000 người đối với nữ tại Hoa Kỳ. Một nghiên cứu ở Tây Ban Nha cũng cho thấy có khoảng 9,1% người ở độ tuổi từ 40 - 69 bị COPD. Trong số đó có 78% là nam giới. Mặc dù nam giới có tỷ lệ tử vong cao hơn nhưng tỷ lệ tử vong ở nữ giới cũng đang gia tăng.
Trên thế giới, do có hơn 1,2 tỷ người tiếp xúc với khói thuốc nên số người bị COPD cũng khá cao. Vào năm 1990, tỷ lệ mắc bệnh COPD trên thế giới là 9,4/1.000 ở nam và 7,3/1.000 ở nữ.
Tỷ lệ tử vong do COPD thay đổi tùy theo quốc gia. Chẳng hạn như có 400/100.000 trường hợp tử vong ở nam giới độ tuổi 65 - 74 tại Romania, trong khi đó tỷ lệ này ở Nhật Bản là dưới 100/100.000 người.
Mục tiêu điều trị đối với COPD là cải thiện chất lượng sống bằng cách phòng ngừa các triệu chứng và cơn nặng của bệnh, do đó bảo toàn chức năng tối ưu của phổi.
Nếu bị chẩn đoán là COPD, bạn nên tìm hiểu kỹ về bệnh của mình và tham gia tích cực vào chương trình điều trị.
Ngừng hút thuốc là việc quan trọng nhất bạn có thể làm để cải thiện tình hình. Hầu hết những bệnh nhân bị COPD đang hút thuốc hoặc đã từng hút thuốc trước đây. Kế hoạch ngừng hút thuốc là một phần cơ bản trong toàn bộ kế hoạch điều trị. Tuy nhiên, tỷ lệ bỏ thuốc thành công vẫn thấp do những nguyên nhân sau:
Sức gây nghiện của Nicotine.
Đáp ứng của cơ thể với những tác nhân kích thích liên quan đến khói thuốc.
Vấn đề tâm lý, bao gồm stress, trình độ văn hóa thấp, và những chiến dịch phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp thuốc lá.
Quá trình chuyển từ hút thuốc sang không hút thuốc gồm 5 giai đoạn:
Trước khi suy tính
Suy tính
Chuẩn bị
Hành động
Duy trì
Tiến trình bỏ thuốc có thể có sự can thiệp của nhiều phía, bao gồm:
Bản thân
Nhóm
Bác sĩ
Nơi làm việc
Các chương trình cộng đồng
Một chương trình bỏ thuốc thành công thường dùng các nguồn trợ lực sau:
Giáo dục sức khỏe
Theo dõi
Phòng tái phát
Những lời khuyên về thay đổi lối sống
Chương trình hỗ trợ của xã hội
Điều trị phụ thêm (chẳng hạn như uống thuốc)
Ba mục tiêu chính của việc điều trị COPD là:
Giảm giới hạn thông khí.
Phòng ngừa và điều trị những biến chứng (như giảm ôxy máu, nhiễm trùng).
Giảm triệu chứng hô hấp và cải thiện chất lượng sống.
Những cơn cấp của COPD là một trong những nguyên nhân chính khiến bệnh nhân phải nhập viện tại Hoa Kỳ.
Bạn có thể phải cần nhập viện nếu bị suy chức năng hô hấp nặng, nếu bệnh tiến triển, hoặc nếu bạn có một bệnh về hô hấp nghiêm trọng khác (như viêm phổi, viêm phế quản cấp). Mục tiêu nhập viện là để điều trị triệu chứng và ngăn ngừa diễn tiến xấu hơn.
Có thể bạn sẽ phải vào phòng Chăm sóc tích cực (ICU - Intensive care unit) nếu cần phải thở máy xâm lấn hoặc không xâm lấn hoặc nếu có những triệu chứng sau:
Lú lẫn
Lơ mơ
Mỏi cơ hô hấp
Thiếu ôxy máu nặng
Toan hô hấp (tình trạng tích trữ CO2 trong máu)
Các bác sĩ có thể cho rằng bạn cần phải dùng thuốc để giảm bớt các triệu chứng.
Cai thuốc lá bằng liệu pháp thay thế Nicotine: Dùng thuốc dưới sự theo dõi chặt chẽ là điều quan trọng trong kế hoạch cai thuốc. Nicotine - một thành phần trong thuốc lá - là tác nhân chính gây nghiện. Không sử dụng Nicotine nữa sẽ gây cho bạn những tác dụng phụ khó chịu như: bứt rứt, kích thích, khó tập trung, tức giận, mệt mỏi, lơ mơ, trầm cảm, và dễ tỉnh giấc khi ngủ. Những hiện tượng này thường xảy ra vào vài tuần đầu sau khi bỏ thuốc. Liệu pháp thay thế Nicotine giảm những triệu chứng cai nghiện trên. Nếu bạn cần phải hút thuốc trong vòng 30 phút sau khi tỉnh dậy, có nhiều khả năng là bạn bị nghiện nặng và sẽ cảm thấy khá hơn khi dùng liệu pháp này.
Nicotine polacrilex là kẹo gôm. Có 2 loại là 2mg và 4mg. Nếu bạn hút 1 gói/ngày, bạn nên dùng loại 4mg. Nếu bạn hút ít hơn 1 gói/ngày, bạn nên dùng loại 2mg. Nên nhai mỗi giờ và cũng nên nhai mỗi khi cảm thấy muốn hút thuốc trong vòng 2 tuần đầu. Bạn có thể sẽ giảm dần lượng kẹo sau 3 tháng kế tiếp.
Miếng dán Nicotine cũng có thể được sử dụng. Tác dụng phụ thường gặp nhất là da bị kích thích nhẹ ở vùng dán. Miếng dán này được bán dưới nhiều tên thương mại khác nhau như: Nicoderm, Nicotrol, và Habitrol. Mỗi loại được thiết kế để giảm nicotine sau 6 - 10 tuần.
Dùng thuốc chống trầm cảm Bupropion (Zyban) cũng có hiệu quả. Nó là thuốc không chứa Nicotine giúp bỏ thuốc. Bupropion cũng có hiệu quả đối với những người không có khả năng bỏ thuốc bằng liệu pháp Nicotine thay thế.
Corticoid hít: Một số người bị COPD đáp ứng tốt với Corticoid đường uống có thể duy trì trong thời gian dài với Corticoid hít.Việc sử dụng loại thuốc này rất phổ biến mặc dù bằng chứng về hiệu quả của nó đối với COPD cũng rất ít. Corticoid không làm chậm lại quá trình suy giảm chức năng phổi. Tuy nhiên, chúng làm giảm tần số xuất hiện cơn và cải thiện tính chất bệnh cùng với chất lượng sống ở một số bệnh nhân COPD. Corticoid dạng hít có ít tác dụng phụ hơn dạng uống, nhưng chúng cho hiệu quả thấp hơn, ngay cả khi được sử dụng với liều cao.
Thuốc đồng vận Beta 2 - thuốc giãn phế quản: Thuốc giãn phế quản đồng vận Beta 2 dạng hít có tác dụng làm giãn và thông đường thở. Chúng có tác dụng nhanh, thường là trong vài phút. Thuốc đồng vận Beta 2 được dùng chủ yếu để giảm triệu chứng của COPD. Đồng vận Beta 2 dạng hít là cách điều trị lựa chọn cho cơn COPD cấp. Có 2 loại đồng vận Beta 2 tác dụng kéo dài (Formoterol, Salmeterol) được sử dụng. Chúng có thể có ích nếu như bạn thường dùng loại tác dụng ngắn hoặc bạn thấy xuất hiện triệu chứng vào ban đêm.
Thuốc ức chế đối giao cảm - giãn phế quản: Duy trì điều trị bằng thuốc kháng đối giao cảm dạng xịt (Ipratropium bromide) có thể sẽ hiệu quả hơn đồng vận Beta 2 đối với những bệnh nhân COPD, đặc biệt trong việc giảm thở hụt hơi. Ipratropium bromide làm thông đường thở nhưng có ít tác dụng phụ. Thuốc được cho dưới dạng bình xịt có định liều, khoảng 2 - 4 nhát, 4 lần mỗi ngày. Có thể cho thêm đồng vận beta 2 nếu cần thiết. Mặc dù thuốc cho tác dụng chậm hơn đồng vận Beta 2 dạng hít (khoảng 30 - 60 phút), nhưng tác dụng của nó lại kéo dài hơn. Do đó, nó không thích hợp để dùng với mục đích khẩn cấp. Những người bị cơn COPD cấp đáp ứng tốt với đồng vận Beta 2 dạng hít và kháng đối giao cảm dạng xịt. Việc điều trị thường bắt đầu với việc cho đồng vận Beta 2 dạng hít qua máy xông. Cho thuốc dạng này cũng làm giảm tác dụng phụ. Ipratropium bromide dạng xịt cũng thường có thể được thêm vào.
Thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài: Methylxanthine, chẳng hạn như Theophylline, là một nhóm thuốc có liên quan đến Caffein. Chúng tác động trên bệnh COPD bằng cách làm thông đường thở. Ngoài ra, Methylxanthine làm giảm viêm, cải thiện chức năng cơ hô hấp, kích thích trung tâm hô hấp của não.Thêm Theophyline vào nhóm thuốc giãn phế quản có thể có ích mặc dù đáp ứng với Theophyline khác nhau tùy theo mỗi bệnh nhân. Tuy nhiên, người ta ngày càng ít sử dụng chúng trong thập kỷ vừa qua do nguy cơ xảy ra những tác dụng phụ không mong muốn. Những tác dụng phụ bao gồm: bứt rứt, run giật, buồn ngủ, nôn ói, loạn nhịp tim và đột quỵ.
Corticoid dạng uống: Corticoid được dùng với những người không cải thiện sau khi đã dùng các loại thuốc khác hoặc những người đang lên cơn cấp tính. Corticoid dạng uống được dùng điều trị thành công ở những người bị cơn cấp tính. Chúng cải thiện triệu chứng và chức năng của phổi trong những trường hợp này. Corticoid dạng uống thường không được khuyến khích dùng trong thời gian dài do những phản ứng phụ của chúng.
Kháng sinh: Những bệnh nhân COPD thường hay bị nhiễm trùng đường hô hấp dưới, mục đích của kháng sinh không phải là để ngăn chặn vi trùng mà là điều trị những cơn cấp. Điều trị bằng kháng sinh có lợi cho những người bị cơn cấp với ít nhất 2 trong số những triệu chứng sau (tiêu chuẩn Winnipeg): thở hụt hơi tăng nhiều, tăng sản xuất đờm, tăng xuất tiết đờm. Loại thuốc được lựa chọn đầu tiên bao gồm Amoxicillin, Cefaclor, hoặc Trimethoprim/Sulfamethoxazole. Thứ hai là Azithromycin, Clarithromycin, và Fluoroquinolone.
Thuốc loãng đờm: Thuốc làm loãng đờm không chỉ làm giảm độ đặc của đờm mà còn tăng độ thanh thải của nó nữa.
Ôxy: COPD thường đi kèm với thiếu ôxy máu. Trong nhiều trường hợp, triệu chứng thiếu ôxy máu không xuất hiện lúc bệnh nhân nghỉ ngơi mà là vào lúc họ gắng sức. Ngay cả khi những nghiên cứu xác định ích lợi lâu dài của việc thở ôxy đơn độc đối với các hoạt động thể lực vẫn chưa được tiến hành thì việc cho thở ôxy tại nhà vẫn thường được các bác sĩ khuyên dùng đối với những người bị giảm ôxy máu khi gắng sức. Thở ôxy khi gắng sức có thể giúp làm tăng áp lực động mạch phổi, giảm triệu chứng thở hụt hơi và tăng khả năng vận động.Việc thở ôxy đối với những bệnh nhân COPD cũng có thể cần thiết trong khi đi máy bay do áp suất trong cabin máy bay thấp. Bạn có thể chuẩn bị cho chuyến bay bằng cách thở ôxy trước khi khởi hành. Những bệnh nhân COPD bị thức dậy giữa chừng bởi những triệu chứng của nó cũng có thể cần phải thở ôxy. Thở ôxy thường thì an toàn. Người ta đã nhận biết được độc tính của ôxy liều cao, nhưng vẫn tìm thấy rất ít những tác hại lâu dài của thở ôxy liều thấp. Do việc thở ôxy lâu dài làm giảm tỷ lệ tử vong với những người bị COPD nặng, tăng khả năng sống còn và chất lượng sống đã lấn át những nguy cơ có thể xảy ra. Mối nguy hiểm lớn nhất của liệu pháp này là cháy và nổ. Những bệnh nhân COPD, gia đình, và người chăm sóc không nên hút thuốc khi máy thở ôxy đang được sử dụng. Tuy nhiên, xét trên tổng thể thì những tai nạn lớn thường hiếm gặp và có thể tránh nếu được huấn luyện kỹ càng.
Trong vòng 50 - 75 năm gần đây, nhiều phương pháp phẫu thuật đã được thử để cải thiện triệu chứng và phục hồi chức năng của phổi ở những người bị khí phế thũng nhưng chỉ có mổ cắt bóng khí và có thể là phẫu thuật làm giảm thể tích phổi được chứng minh là có hiệu quả.
Mổ cắt bóng khí:
Là phẫu thuật cắt những bóng khí lớn ở phổi do khí phế thũng nằm ở phần ngoại vi của phổi. Phẫu thuật này được xem là phẫu thuật tiêu chuẩn trong nhiều năm. Bóng khí ở những bệnh nhân bị khí phế thũng thường có kích thước thay đổi từ 1 - 4cm đường kính, tuy nhiên, bóng khí có thể chiếm hơn 33% nửa ngực.
Các bóng khí có thể chèn ép những nhu mô phổi gần kề, giảm lượng máu đến và giảm thông khí cho những mô khỏe mạnh. Loại bỏ những bóng khí này sẽ giúp phần phổi bị chèn ép nở ra và chức năng được cải thiện.
Phẫu thuật cắt phổi:
Lần đầu tiên được thực hiện cách đây gần 40 năm. Thông thường, phẫu thuật viên sẽ lấy đi 20 - 30% từ phần trên của mỗi phổi, là khu vực thường bị thương tổn nhiều nhất do khói thuốc. Người ta lý giải rằng việc lấy đi phần phổi bị bệnh sẽ làm tăng đường kính đường dẫn khí ở những phần phổi còn lại và do đó sẽ cải thiện chức năng phổi và thông khí, sẽ làm giảm triệu chứng.
Thủ thuật này có tỷ lệ tử vong từ 0 - 8% và một số biến chứng. Tiêu chuẩn để xác định những ai nên phẫu thuật gần đây đã được công bố. Nói chung, tất cả những người nên phẫu thuật là những người có các triệu chứng của khí phế thũng nặng, phì đại đường thở và bóng khí do khí phế thũng một cách nhanh chóng và bằng chứng của khí phế thũng trên HRCT. Một nghiên cứu lớn vừa mới được hoàn thành cho thấy những bệnh nhân bị bệnh phổi ở thùy trên và dung nạp kém với vận động thể lực có thể được hưởng lợi từ phương pháp này.
Ghép phổi là cách điều trị tương đối mới đối với những bệnh nhân bị bệnh phổi nặng. Những người bị COPD nằm trong nhóm lớn nhất những người được ghép. Thời gian ghép rất khó xác định, nhưng những người được lựa chọn để ghép là người chỉ còn có thể sống được dưới 2 năm nữa do COPD nếu không được ghép.