Sốc nhiễm khuẩn là một cấp cứu trong truyền nhiễm, tỷ lệ tử vong còn cao (40 – 70%) nếu không được xử trí kịp thời. Đây là tình trạng đáp ứng của toàn cơ thể với vi khuẩn gây bệnh, là biểu hiện nặng của nhiễm khuẩn huyết. Hầu như bất kỳ loại nhiễm trùng nào cũng có thể dẫn đến nhiễm trùng huyết mặc dù phổ biến nhất là do viêm phổi, nhiễm trùng đường tiết niệu (viêm bàng quang), nhiễm trùng ổ bụng và viêm mô tế bào (nhiễm trùng da). Bệnh nhân có hệ miễn dịch bị suy yếu có nguy cơ lớn nhất mắc bệnh này. Những bệnh nhân này bao gồm: bệnh nhân tiểu đường, bệnh nhân hóa trị liệu, bệnh nhân HIV, trẻ sơ sinh, bệnh nhân lớn tuổi và bệnh nhân bị bệnh mãn tính.
Sốt cao hoặc thân nhiệt thấp, tăng thông khí (thở quá nhanh), ớn lạnh, run rẩy, da nóng, nổi mẩn da, chóng mặt, ngất xỉu, nhịp tim nhanh, nhầm lẫn, mê sảng, giảm lượng nước tiểu, mạch yếu.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Các xét nghiệm được thực hiện để thiết lập chẩn đoán, xác định các loại vi khuẩn, và xác định mức độ thiệt hại do nhiễm khuẩn huyết gây ra.
Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC), xét nghiệm bảng chuyển hóa toàn diện (CMP).
Chụp cắt lớp vi tính (CT Scan), điện tâm đồ (EKG).
Xét nghiệm Troponin máu, xét nghiệm nước tiểu (UA) vàchụp X-quang.
Có thể bổ sung: xét nghiệm Lactate, khí máu động mạch (ABG), cấy máu, cấy nước tiểu.