Bệnh sỏi tiết niệu bao gồm: sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang và một số trường hợp có cả sỏi niệu đạo thường là do sỏi từ bên trên đi xuống. Bệnh hay xảy ra ở người lớn tuổi, ít xảy ra ở trẻ em và thường có tiền sử bệnh lâu dài qua nhiều năm.
Xuất hiện các cơn đau quặn thận (đau nhói, đau quặn ở thận), tiểu buốt, tiểu ra máu, đau vùng lưng- thắt lưng.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Xét nghiệm nước tiểu, siêu âm, X-quang vùng bụng.
Chụp hệ tiết niệu qua đường tĩnh mạch (UIV), chụp X-quang niệu quản thận ngược dòng, chụp X-quang niệu quản thận xuôi dòng.
Soi bàng quang.
Uống thuốc, phẫu thuật lấy sỏi, tán sỏi laser, phẫu thuật nội soi lấy sỏi sau phúc mạc, lấy sỏi qua da (PCNL), tán sỏi ngoài cơ thể (ESWL).
Sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang và một số trường hợp có cả sỏi niệu đạo thường là do sỏi từ bên trên đi xuống. Bệnh hay xảy ra ở người lớn tuổi, ít xảy ra ở trẻ em và thường có tiền sử bệnh lâu dài qua nhiều năm.
Bệnh sỏi đường tiết niệu hay xảy ra ở thận nhất, kế đó là sỏi niệu quản, sỏi bàng quang ít gặp hơn còn sỏi kẹt niệu đạo chỉ xảy ra ở đàn ông. Vì niệu đạo của đàn ông dài, sỏi khó thoát ra ngoài theo dòng nước tiểu.
Thuốc có tác dụng bào mòn, tan sỏi, tống sỏi:
Các thuốc trong nhóm này sẽ làm giảm kết dính các tinh thể. Thuốc có hiệu quả ở những trường hợp sỏi nhỏ, bề mặt sỏi nhẵn, vị trí thấp. Gồm có:
Kim tiền thảo với thành phần desmodium styracifolium có tác dụng giảm kết dính, tiêu viêm, giảm đau. Đây là dược liệu được sử dụng lâu đời ở Trung Quốc và Việt Nam, thịnh hành trong điều trị sỏi tiết niệu. Các công ty dược phẩm đã dùng các kỹ thuật bào chế hiện đại để sản xuất kim tiền thảo đơn thuần dưới dạng viên bao đường hoặc viên bao phim. Phụ nữ có thai, nuôi con bú và trẻ em không nên dùng kim tiền thảo.
Ngoài kim tiền thảo, các lương y còn thêm râu ngô, bông mã đề, rễ cỏ tranh làm thang thuốc cho người bệnh uống hàng ngày.
Thuốc có thành phần: cao hạt chuối hột, cao rau om, cao rau mèo, cao hạt lười ươi. Hoặc Pinene, Camphene Cineol, Fenchone, Borneol, Bnethol, dầu ôliu. Thuốc có tác dụng thải trừ sỏi, giảm viêm, tăng luồng máu qua thận và làm tăng thể tích nước tiểu, giảm đau, giảm co thắt đường niệu. Vì vậy có tác dụng thuận lợi cho đào thải sỏi cũng như ngăn ngừa sỏi tái phát.
Dung dịch Hemiacidrin chứa magiê hydroxycarbonat, Axít Citrat Magiê, Axít Citric, Axít Anhydrous D Gluconic và Canxi Carbonat được đưa trực tiếp vào niệu quản, thận, tiếp xúc với sỏi qua ống thông niệu quản hoặc qua da để hòa tan sỏi. Ở Việt Nam, chưa có kinh nghiệm về thuốc và phương pháp điều trị này.
Thuốc có tác dụng hạn chế tạo thành sỏi:
Thuốc lợi tiểu nhóm thiazid gây tăng đào thải canxi niệu. Thuốc có thể gây mất nước, tụt huyết áp.
Dung dịch kiềm Natribicarbonat. Pha 5g muối bicarbonat trong 500ml nước đun sôi để nguội uống trong ngày có tác dụng phòng sỏi urat trong bệnh gút.
Orthophosphat để đào thải pyrophosphat ra nước tiểu có tác dụng ức chế kết dính phosphat canxi tạo sỏi.
Kali citrat để phòng ngừa sỏi axít uric, sỏi cystine.
Thuốc chống co thắt, giảm đau: Trong sỏi tiết niệu có triệu chứng đau do co thắt niệu quản, do tắc nghẽn. Tùy theo đau ít hay nhiều, có thể chọn một trong các thuốc sau:
Papaverin: hiện ít dùng.
Alverin citrat (spasmaverin). Không dùng cho phụ nữ có thai và cho con bú.
Spasfon (viên 80mg, ống 40mg).
Drotaverin (viên 40mg, ống 40mg).
Buscopan (viên 10mg, ống 20mg).
Thuốc kháng sinh khi có biến chứng bội nhiễm:
Trong sỏi tiết niệu tái phát, sỏi to san hô có bội nhiễm, các thầy thuốc thường chọn một trong các nhóm sau dựa vào thể trạng người bệnh và kinh nghiệm của thầy thuốc:
Nhóm cephalosporin thế hệ 2, thế hệ 3, thế hệ 4.
Nhóm quinolon dưới dạng viên hoặc ống: ciprofloxacin, levofloxacin, norfloxacin, ofloxacin.
Rất thận trọng khi chỉ định nhóm aminoglycosides vì độc thận.
Việc điều trị nội khoa trong bệnh sỏi tiết niệu cần được tiến hành sớm, kịp thời, hiệu quả và theo dõi định kỳ tốt để tránh chuyển đến suy thận mạn.