Tóm tắt bệnh Tắc mạch ối

Các tên gọi khác của bệnh này:

  • Amniotic Fluid Embolism

Tắc mạch ối là do nước ối, tế bào của thai nhi, chất gây, tóc, lông tơ hoặc các mảnh mô khác lọt vào tuần hoàn của người mẹ, gây ra suy hô hấp và suy tuần hoàn cấp tính. Tắc mạch ối là một biến chứng sản khoa rất nguy hiểm, tỷ lệ tử vong cao, không thể đoán trước và không thể dự phòng được.

Triệu chứng

Khởi đầu là suy hô hấp, tím tái xảy ra đột ngột trong vài phút, tiếp đến là tụt huyết áp, phù phổi, choáng, biểu hiện thần kinh như: lú lẫn, mất ý thức và co giật. Nếu người bệnh qua được giai đoạn này (khoảng 40% số trường hợp) sẽ có biểu hiện chảy máu dữ dội nhiều nơi do đờ tử cung (nếu sau đẻ) và do đông máu rải rác trong lòng mạch. Chảy máu từ tử cung không thể cầm được. Số trường hợp có biểu hiện phù phổi ở giai đoạn này cũng cao.

Chẩn đoán

  • Khám thực thể.

  • Xét nghiệm khí trong máu, công thức máu, đông máu.

  • X-quang phổi.

  • Điện tâm đồ.

Điều trị

Khi nghi ngờ tắc mạch ối cần ngay lập tức thực hiện các biện pháp cấp cứu. Duy trì cung cấp oxy cho sản phụ, truyền tĩnh mạch, nâng huyết áp bằng dung dịch cao phân tử. Hồi sức tim nếu ngừng tim. Truyền máu và các chế phẩm của máu nếu kết quả đông máu không tốt kèm chảy máu dữ dội: truyền máu toàn phần hay khối hồng cầu và huyết tương,… Tuy nhiên trên đây chỉ là những xử trí triệu chứng nhằm hồi phục dấu hiệu sinh tồn của người bệnh, không xử lý được căn nguyên. Vì tai biến này hay xảy ra đột ngột và tiến triển nhanh nên hầu hết người bệnh đều tử vong. Nếu thai chưa xổ thì hầu hết thai nhi không được cứu kịp, người ta có thể mổ ngay để cứu thai nhưng tính may rủi cũng rất lớn.

Tổng quan bệnh Tắc mạch ối

Tắc mạch ối là do nước ối, tế bào của thai nhi, chất gây, tóc, lông tơ hoặc các mảnh mô khác lọt vào tuần hoàn của người mẹ, gây ra suy hô hấp và suy tuần hoàn cấp tính.

Tắc mạch ối là một biến chứng sản khoa rất nguy hiểm, tỷ lệ tử vong cao, không thể đoán trước và không thể dự phòng được.

Điều trị bệnh

Khi nghi ngờ tắc mạch ối với những dấu hiệu của bệnh, lập tức:

  • Duy trì cung cấp ôxy cho sản phụ (đặt nội khí quản, thở máy).

  • Đặt hơn 2 đường truyền tĩnh mạch, nâng huyết áp bằng dung dịch cao phân tử.

  • Hồi sức tim nếu ngừng tim

  • Làm các xét nghiệm cấp cứu:

    • Xét nghiệm khí trong máu

    • Công thức máu

    • Đông máu

  • Theo dõi bằng Monitor.

  • Truyền máu nếu kết quả đông máu không tốt kèm chảy máu dữ dội. Máu toàn phần hay hồng cầu đậm đặc và huyết tương đông được dùng.

Tuy nhiên, trên đây chỉ là những xử trí triệu chứng nhằm hồi phục dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân chứ không xử lý được căn nguyên. Vì tai biến này hay xảy ra đột ngột và tiến triển nhanh nên hầu hết bệnh nhân đều tử vong. Nếu thai chưa xổ thì hầu hết thai nhi không được cứu kịp. Ở các nước có trang bị hiện đại, người ta có thể mổ ngay để cứu thai nhưng tính may rủi cũng rất lớn.

Trường hợp bệnh tiến triển chậm hơn thì có thể mở lồng ngực người mẹ, tìm và lấy đi khối huyết tắc ở động mạch để cứu mẹ. Tuy nhiên, trong thế kỷ 20 chỉ có 1 trường hợp may mắn như vậy; đó là một sản phụ ở Pháp.

Các câu hỏi liên quan bệnh Tắc mạch ối