Bệnh Glôcôm (dân gian thường gọi là thiên đầu thống, ở miền Nam thường gọi "cườm nước") là một bệnh nguy hiểm, thường gặp trong nhãn khoa. Bệnh này gây áp lực trong mắt tăng cao, khiến vùng nhìn bị thu hẹp lại và tổn thương đĩa thị giác. Nguyên nhân của bệnh thiên đầu thống chưa được xác định nhưng nó có thể mang tính gia đình, đi kèm nhiễm trùng hoặc chấn thương, đặc biệt là nếu có chảy máu trong mắt.
Tầm nhìn giảm, đau mắt, buồn nôn, rối loạn thị giác, đau đầu, mắt đỏ.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Đo áp lực nội nhãn (Tonometry) có thể được chỉ định.
Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC), xét nghiệm bảng chuyển hóa toàn diện (CMP), siêu âm.
Điều trị bao gồm thuốc tăng nhãn áp, và/hoặc phẫu thuật.
Các thuốc này bao gồm thuốc nhỏ mắt và thuốc uống:
Các thuốc nhỏ mắt phổ biến nhất là Beta-blockers (Levobunolol/ Betagan, Timolol/ Timoptic, Betaxolol/ Betoptic, Metipranolol/ OptiPranolol), Alpha-agonist (Apraclonidine/ Iopidine, Brimonidine/ Alphagan), thuốc ức chế Anhydrase carbonic (Dorzolamide/ Trusopt, Brinzolamide/ Azopt), Prostaglandin (Latanoprost/ Xalatan, Bimatoprost/ Lumigan, Travoprost/ Travatan), thuốc Miotic hoặc Cholinergic (Pilocarpine/ Pilopine, Carbachol/ Isopto Carbachol), và Epinephrine (Dipivefrin/ Propine).
Các thuốc uống thông dụng nhất là chất ức chế Anhydrase carbonic: Acetazolamide/ Diamox và Methazolamide/ Neptazane.
Bệnh Glôcôm (dân gian thường gọi là thiên đầu thống, ở miền Nam thường gọi "cườm nước") là một bệnh nguy hiểm, thường gặp trong nhãn khoa. Bệnh ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng vì là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây mù lòa vĩnh viễn nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Glôcôm đứng thứ hai trong các nguyên nhân gây mù ở hầu hết các khu vực trên thế giới, thường chỉ đứng sau đục thể thủy tinh.
Bình thường trong mắt luôn có sự cân bằng giữa lượng dịch (thủy dịch) được tiết ra từ thể mi và lượng dịch được dẫn lưu ra ngoài qua một bộ phận gọi là vùng bè. Khi đường dẫn lưu ra ngoài bị cản trở sẽ gây ra tăng áp lực trong mắt và gây tổn hại lên dây thần kinh thị giác, gây ra bệnh Glôcôm. Những người trên 40 tuổi; tiền sử gia đình có người bị Glôcôm; người có cấu trúc giải phẫu thuận lợi: viễn thị cao, góc tiền phòng hẹp là những người có nguy cơ dễ mắc bệnh Glôcôm.
Theo các nghiên cứu mang tính dự báo trong khu vực và trên thế giới, số lượng người bệnh Glôcôm sẽ tăng lên đáng kể vào những năm tới. Ước tính sẽ có 80 triệu người mắc bệnh Glôcôm vào năm 2020, chiếm tỷ lệ 2,86% trên quần thể dân số trên 40 tuổi. Số người mù lòa cả hai mắt do Glôcôm sẽ tăng từ 8,4 triệu năm 2010 lên 11,2 triệu người vào năm 2020. Việt Nam hiện nay có khoảng 24.800 người mù do Glôcôm.
Điều trị Glôcôm góc đóng cơn cấp phải tiến hành khẩn trương, tích cực để hạ nhãn áp, giảm đau và an thần cho bệnh nhân.
Tại mắt: Tra Pilocarpin 1 - 2%, cứ 1h/lần, duy trì đến khi nhãn áp hạ thì tra 3 - 4 lần/ngày.
Toàn thân: Uống Acetazolamid 0.25 g x 2 - 4 viên/24h
Nếu bệnh nhân nôn nhiều không uống được thuốc thì tiêm tĩnh mạch Diamox 500 mg x 1 ống.
Tuy nhiên điều trị nội khoa chỉ để hỗ trợ cho điều trị phẫu thuật. Cần lựa chọn phẫu thuật thích hợp tương ứng với mức độ và giai đoạn bệnh. Nếu bệnh nhân đến sớm, nhãn áp điều chỉnh bằng thuốc tra Pilocarpin, góc tiền phòng đóng dưới 180 độ thì có chỉ định cắt mống mắt chu biên bằng laser hoặc phẫu thuật. Phẫu thuật lỗ dò đặt ra khi bệnh nhân đến muộn, mặc dù có dùng thuốc góc tiền phòng vẫn đóng trên 180 độ.
Glôcôm góc đóng nếu không được điều trị kịp thời thì cơn kịch phát sẽ tái diễn nhiều lần, bệnh tiến triển một cách trầm trọng dẫn tới mù loà.
Mục đích điều trị Glôcôm góc mở là hạ nhãn áp xuống dưới mức có thể gây tổn hại thêm cho thị thần kinh và chức năng thị giác. Cần lựa chọn phương pháp điều trị an toàn nhất, ít ảnh hưởng đến đời sống bệnh nhân nhất. Điều trị Glôcôm góc mở luôn bắt đầu bằng các thuốc tra tại chỗ, bằng laser. Điều trị phẫu thuật chỉ đặt ra khi áp dụng các biện pháp trên không kết quả.
Hiện nay có rất nhiều nhóm thuốc tra mắt điều trị Glôcôm góc mở:
Nhóm huỷ Beta-adrenergic: Cơ chế là làm giảm tiết thuỷ dịch, biệt dược phổ biến trên thị trường là Betoptic (0,25%; 0,5%), Timolol (0,25%; 0,5%)…
Nhóm cường Adrenergic: Cơ chế làm tăng lưu thông thuỷ dịch qua vùng bè và qua đường màng bồ đào - củng mạc. Biệt dược là Epinephrin (0,25 - 2%), Alphagan P 0,15%.....
Nhóm cường Cholinergic: Cơ chế làm co rút cơ thể mi, kéo vào cựa củng mạc và vùng bè, do đó làm tăng lưu thông thuỷ dịch. Biệt dược là Pilocarpin (0,5 - 4%).
Nhóm Prostaglandin: Có tác dụng hạ nhãn áp rất tốt bằng tăng lưu thông thuỷ dịch qua đường màng bồ đào - củng mạc. Biệt dược là Travatan 0,004%, Lumigan 0,03%...
Tuy nhiên điều trị bằng các thuốc tra tại chỗ đòi hỏi bệnh nhân phải tuân thủ nghiêm ngặt liệu trình điều trị trong suốt cuộc đời dưới sự theo dõi định kỳ của bác sĩ, 3 – 6 tháng/lần. Đối với những bệnh nhân nghèo, không đủ khả năng kinh tế để dùng thuốc suốt đời, hoặc những bệnh nhân ở quá xa, điều kiện đi lại khó khăn, nên xem xét để điều trị phẫu thuật cho bệnh nhân.