Thương hàn là hội chứng nhiễm khuẩn đường tiêu hóa gây ra bởi các vi khuẩn Salmonella typhi. Bệnh hiếm khi xảy ra ở các nước đang phát triển, thường xảy ra ở các nước có điều kiện vệ sinh kém và nguồn nước bị ô nhiễm. Hằng năm, trên thế giới có khoảng 16 - 33 triệu người mắc bệnh thương hàn, trong đó 5.000 - 6.000 người tử vong.
Nhức đầu, tiêu chảy, táo bón, sốt, ớn lạnh, chán ăn, mệt mỏi.
Đào ban (hay hồng ban) xuất hiện trên lồng ngực và bụng trong tuần thứ hai của cơn sốt, đau bụng, yếu, mệt mỏi.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Các xét nghiệm để thiết lập chẩn đoán có thể bao gồm: xét nghiệm kháng thể trong máu hoặc xét nghiệm kháng nguyên, cấy máu, phân hoặc cấy dịch cơ thể khác và nuôi cấy mô.
Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC), xét nghiệm bảng chuyển hóa toàn diện (CMP), chụp cắt lớp vi tính (CT Scan), chụp cộng hưởng từ (MRI), xét nghiệm Tronopin, xét nghiệm nước tiểu, chụp X-quang, xét nghiệm Lipase.
Thương hàn là một hội chứng gồm các biểu hiện đường tiêu hóa và toàn thân, do trực khuẩn Salmonella typhi, Salmonella paratyphi A và Salmonella paratyphi B, thuộc họ Enterobacteriae gây nên. Người bị bệnh do ăn uống phải thức ăn, nước uống bị nhiễm khuẩn.
Hằng năm, trên thế giới có khoảng 16 - 33 triệu người mắc bệnh thương hàn, trong đó 5.000 - 6.000 người tử vong. Bệnh lây lan nhiều nhất ở độ tuổi từ 5 - 19 tuổi. Tổ chức Y tế Thế giới đã xếp thương hàn vào loại bệnh truyền nhiễm quan trọng.
Trực khuẩn Salmonella xâm nhập vào cơ thể qua đường miệng và hầu hết là bởi thức ăn, sữa, nước uống... nhiễm khuẩn. Sau khi xuyên qua hàng rào axit dạ dày, trực khuẩn di động về phía ruột non và sinh sản ở đó, tiếp tục chui qua niêm mạc vào thành ruột và đi vào máu. Trực khuẩn sẽ được chuyên chở bởi những tế bào bạch cầu ở gan, lách và tủy xương. Khi đó trực khuẩn sẽ sinh sôi, nảy nở trong những tế bào này và quay lại dòng máu, tiếp tục xâm nhập vào túi mật, hệ thống ống mật và các tế bào, mô lympho trong ruột. Tại đây, chúng sinh sôi, nảy nở với số lượng lớn.
Những bệnh nhân bị bệnh thương hàn cấp tính có thể là nguồn lây bệnh ra môi trường nước xung quanh qua phân. Trong giai đoạn cấp, các chất thải (phân) người bệnh có nồng độ vi khuẩn rất cao.
Năm 1952, chỉ 2 năm sau khi bắt đầu sử dụng kháng sinh điều trị thành công bệnh thương hàn thì đã có báo cáo về Salmonella typhi kháng Chloramphenicol. Các vụ bùng phát Salmonella typhi kháng Chloramphenicol xảy ra ngày một nhiều ở các nước đang phát triển từ đầu những năm 1970 đến giữa những năm 1980.
Cuối những năm 1980 cho đến đầu những năm 1990, phát hiện thấy Salmonella typhi có Plasmid đề kháng với Chloramphenicol, Ampicillin, Cotrimoxazole ở châu Á và Đông Bắc Phi. Một nghiên cứu ở Việt Nam năm 1993 - 1994 cho thấy, có tới hơn 70% các chủng phân lập là đa kháng và 4% kháng axit Nalidixic.
Nhiễm các chủng đa kháng có liên quan đến số lượng trực khuẩn trong máu cao hơn, đáp ứng với điều trị chậm hơn, tăng biến chứng và tăng tỷ lệ tử vong.
Các Fluoroquinolon và Cephalosporin thế hệ III nổi lên trong những năm 1990 là những thuốc hiệu quả để điều trị các trường hợp sốt thương hàn có mầm bệnh kháng với các kháng sinh chuẩn.
Cũng trong thập kỷ 1990 đã bùng phát những vụ dịch mà vi khuẩn thương hàn kháng với các Fluoroquinolon như axit Nalidixic, Ciprofloxacin và cũng đã có những báo cáo mức độ đề kháng cao Ceftriaxon đối với Salmonella typhi và S. paratyphi A.
Gần đây lại có những báo cáo về sự quay trở lại của các chủng Salmonella typhi nhạy cảm Chloramphenicol ở một số khu vực như Ai Cập, Ấn Độ và Bangladesh.
Nguyên tắc điều trị:
Dùng kháng sinh thích hợp.
Điều trị hỗ trợ và chăm sóc tốt.
Nhanh chóng chẩn đoán và điều trị thủng ruột, chảy máu ruột và các biến chứng khác.
Dùng Corticoid liều cao cho những bệnh nhân nặng.
Điều trị đặc hiệu: Các kháng sinh đã dùng để điều trị thương hàn bao gồm: Ampicillin, Amoxicillin, Cefotaxime, Ceftriaxone, Chloramphenicol, Co-trimoxazol và Fluoroquinolon. Việc dùng kháng sinh nào, liều dùng bao nhiêu, trong thời gian bao lâu phải do bác sĩ chuyên khoa chỉ định. Việc lựa chọn kháng sinh dựa trên kinh nghiệm và bằng chứng về tính nhạy cảm của vi khuẩn tại địa phương.
Điều trị hỗ trợ:
Nghỉ ngơi, ăn chế độ ăn chất mềm, ít xơ, dễ tiêu, giàu dinh dưỡng.
Điều chỉnh rối loạn điện giải theo điện giải đồ. Đảm bảo cung cấp đủ dịch cho bệnh nhân.
Điều trị Corticoid cho những thể nặng (viêm não, viêm cơ tim và sốc). Nghiên cứu cho thấy dùng Dexamethasone liều cao làm giảm tỷ lệ tử vong mà không tăng tỷ lệ các biến chứng, tỷ lệ người mang vi khuẩn hay tái phát.
Điều trị các biến chứng (trụy mạch, xuất huyết tiêu hoá, thủng ruột...).
Các trường hợp tái phát và người mang vi khuẩn:
Nên điều trị các trường hợp tái phát như đợt bệnh ban đầu.
Người mang vi khuẩn nên điều trị bằng liệu pháp kháng sinh kéo dài.
Người mang vi khuẩn nên điều trị triệt để sỏi mật nếu có.
Theo dõi:
Theo dõi lâm sàng: mạch, huyết áp, thân nhiệt, tìm máu trong phân, khám bụng.
Theo dõi cận lâm sàng:
Công thức máu: Giảm hồng cầu hoặc tăng bạch cầu máu gợi ý thủng ruột.
Điện giải đồ huyết thanh.
Điện tâm đồ.
Chụp X-quang bụng để tìm hơi trong khoang phúc mạc.
Cấy phân âm tính để biết được chắc chắn là đang lành bệnh.