Ung thư da là một bệnh ác tính, có thể khởi phát từ lớp ngoài cùng bao gồm các tế bào sừng, hoặc từ lớp bên trong có các tế bào đáy và tế bào hắc tố (Melanocyte). Căn bệnh này là kết quả của sự phát triển bất thường của các tế bào da. Nguyên nhân chính là do da bị tổn thương bởi tia cực tím. Tia cực tím có thể xuyên qua da và làm tổn thương các tế bào, chịu trách nhiệm cho phần lớn các trường hợp ung thư da cũng như các vết nhăn và nốt tàn nhang do tuổi.
Ung thư da gồm 3 loại thường gặp là ung thư tế bào đáy, tế bào sừng và tế bào hắc tố, trong đó phổ biến nhất là ung thư tế bào đáy và tế bào sừng.
Các nốt ruồi có màu sắc hỗn hợp nâu, đen, đỏ, trắng, xanh không đều nhau.
Bề mặt nốt ruồi thô nhám, có dạng vảy, đôi khi có hiện tượng chảy máu hoặc mủ.
Vùng da xung quanh nốt ruồi có thể bị phù nề, hoặc mất độ sáng da ban đầu, hoặc chuyển sang màu trắng, màu xám.
Có cảm giác ngứa, rát hoặc đau cục bộ.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Nếu phát hiện có bất kỳ bất thường nào về da sẽ thực hiện sinh thiết da.
Các xét nghiệm khác bao gồm xét nghiệm máu, chụp cắt lớp phát xạ (PET Scan).
Có nhiều biện pháp điều trị được áp dụng như phẫu thuật cắt bỏ rộng thương tổn, phẫu thuật cắt bỏ thương tổn có kiểm soát bằng giải phẫu bệnh (phẫu thuật Mohs), phẫu thuật lạnh, đốt bỏ thương tổn, xạ trị, hóa chất, liệu pháp sinh học hay miễn dịch liệu pháp, quang động học liệu pháp…
Ung thư da là một bệnh ác tính, có thể khởi phát từ lớp ngoài cùng bao gồm các tế bào sừng, hoặc từ lớp bên trong có các tế bào đáy và tế bào hắc tố (Melanocyte).
Bình thường các tế bào da phát triển theo một trình tự tổ chức rất chặt chẽ. Những tế bào mới còn non đẩy những tế bào trưởng thành lên bề mặt da. Khi các tế bào lên đến lớp trên cùng, chúng chết đi và bị tróc ra.
Ung thư da là kết quả của sự phát triển bất thường của các tế bào da. Nguyên nhân chính là do da bị tổn thương bởi tia cực tím. Tia cực tím có thể xuyên qua da và làm tổn thương các tế bào, chịu trách nhiệm cho phần lớn các trường hợp ung thư da cũng như các vết nhăn và nốt tàn nhang do tuổi.
Ung thư da gồm 3 loại thường gặp là ung thư tế bào đáy, tế bào sừng và tế bào hắc tố, trong đó phổ biến nhất là ung thư tế bào đáy và tế bào sừng. Cả hai loại này đều ở bề mặt, tốc độ phát triển chậm và khả năng chữa lành cao, nhất là khi được phát hiện sớm. Loại ung thư tế bào hắc tố nặng hơn, ảnh hưởng đến các lớp sâu hơn của da và có nguy cơ di căn đến các mô khác cao nhất trong 3 loại.
Ung thư da là một trong những dạng ung thư hay gặp, song nếu phát hiện sớm có thể điều trị được. Ung thư da không nguy hiểm như các loại ung thư khác, do vậy tỷ lệ tử vong ung da thấp. Tuy nhiên, nếu bạn xem nhẹ bệnh này và không chữa trị sớm, kịp thời thì nguy cơ tử vong sẽ xảy ra.
Ung thư da giai đoạn đầu thường xuất hiện những ban đỏ hoặc nốt sần lên trên bề mặt da giống như bị tổn thương da, bề mặt thường kèm theo bong vẩy hoặc hình thành sự đóng vảy, triệu chứng cũng giống với các bệnh lành tính như vẩy nến, viêm da, eczema… Khi bệnh phát triển hơn nữa sẽ có những triệu chứng đặc trưng hơn như nốt sần sáng, hơi trong suốt có kèm các nốt nhỏ, bề mặt rỉ máu và mao mạch chân lông giãn nở. Hoặc bề mặt nhẵn bóng, kết thành mảng giống như sẹo, không nhìn rõ mao mạch chân lông giãn nở, vết loét và sưng. Ngoài ra, có bệnh nhân còn xuất hiện vết sần cứng hoặc hiện tượng xơ hóa trên da, thường thấy nhiều ở vùng cổ, chủ yếu mảng bám cứng màu vàng nhạt hoặc màu trắng - vàng, hơi sưng, ranh giới xung quanh vết sần không rõ ràng, có thể nguyên vẹn trong thời gian khá lâu, nhưng đến giai đoạn cuối sẽ loét ra.
Nguy cơ mắc bệnh ung thư da xảy ra ở tất cả những người mà da không thường xuyên được bảo vệ khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, với các nguồn hóa chất, các sản phẩm nhựa, than đá, thạch tín; các vết sẹo bỏng cũ lâu ngày do vôi, xăng, acid; các vết loét hay ổ viêm nhiễm mạn tính và cũng có thể do hóa chất làm đẹp không an toàn. 95% trường hợp ung thư da xảy ra ở vùng da hở; trong đó, vùng mặt chiếm trên 80%. Có nhiều biện pháp điều trị được áp dụng như phẫu thuật cắt bỏ rộng thương tổn, phẫu thuật cắt bỏ thương tổn có kiểm soát bằng giải phẫu bệnh (phẫu thuật Mohs), phẫu thuật lạnh, đốt bỏ thương tổn, xạ trị, hóa chất, liệu pháp sinh học hay miễn dịch liệu pháp, quang động học liệu pháp…
Trên thế giới, một số loại thuốc mới được áp dụng điều trị ung thư da, bao gồm:
Thuốc Yervoy (Ipilimumab) được Cơ quan Quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ FDA phê chuẩn ngày 25/3/2011 và thuốc Zelboraf (Vemurafenib) được FDA phê chuẩn ngày 17/8/2011 cho phép sử dụng để điều trị ung thư tế bào hắc tố giai đoạn cuối hay ở những trường hợp ung thư tế bào hắc tố không thể phẫu thuật được.
Zelboraf (Vemurafenib) dạng thuốc viên uống, chỉ có tác động lên các khối u hắc tố ác tính có gen lỗi BRAF V600E là gen đột biến tích cực gây di căn. Zelboraf có thể giúp kéo dài cuộc sống thêm 6 - 8 tháng cho 84% bệnh nhân bị ung thư tế bào hắc tố giai đoạn cuối.
Ngày 30/1/2012, Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ FDA phê chuẩn việc sử dụng thuốc Erivedge (Vismodegib) để điều trị bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào đáy, loại ung thư da phổ biến nhất hiện nay. Thuốc được dùng cho những bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào đáy tiến triển tại chỗ, không có chỉ định phẫu thuật hay xạ trị và cho những bệnh nhân ung thư da đã di căn đến những bộ phận khác của cơ thể.Erivedge là loại thuốc uống điều trị ung thư biểu mô tế bào đáy di căn đầu tiên được FDA phê chuẩn. Độ an toàn và hiệu quả của Erivedge được đánh giá trong một nghiên cứu điều trị cho 96 bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào đáy tiến triển tại chỗ hoặc di căn. Kết quả có 30% bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào đáy di căn có tổn thương co lại từng phần đáp ứng với thuốc Erivedge và 43% bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào đáy tiến triển tại chỗ có đáp ứng một phần hoặc hoàn toàn.
Erivedge có dạng thuốc viên, uống 1 lần mỗi ngày, hoạt động bằng cách ức chế lộ trình phân tử hoạt động Hedgehog của các tế bào đáy ung thư, chỉ còn chừa lại một ít mô bình thường như nang lông chẳng hạn. Đây là một phương pháp điều trị hiệu quả với ít khả năng gây tác dụng phụ.
Các tác dụng phụ phổ biến nhất ở những bệnh nhân được điều trị với Erivedge là: co thắt cơ, rụng tóc, giảm cân, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, mệt mỏi, chán ăn, táo bón, rối loạn vị giác. Erivedge (Vismodegib) được FDA phê duyệt với cảnh báo về nguy cơ tiềm năng gây các dị tật bẩm sinh nghiêm trọng hoặc tử vong cho bào thai. Do đó, tình trạng mang thai phải được xác định trước khi bắt đầu dùng Erivedge. Bệnh nhân, cả nam và nữ, phải được cảnh báo về những rủi ro và sự cần thiết phải kiểm soát sinh sản khi dùng thuốc.