Tuyến tiền liệt nằm bên dưới bàng quang và bao quanh niệu đạo (ống thoát nước tiểu của bàng quang). Ung thư tuyến tiền liệt chủ yếu xảy ra ở nam giới trên 60 tuổi. Mặc dù xét nghiệm máu (tìm kháng nguyên tuyến tiền liệt) có thể phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm, việc tầm soát và xử lý ung thư sớm lại có thể gây biến chứng. Trung tâm Y tế dự phòng Mỹ khuyến cáo không nên xét nghiệm tầm soát ung thư tuyến tiền liệt. Ung thư tuyến tiền liệt có thể di căn và gây tử vong.
Nhiều bệnh nhân không có triệu chứng. Các triệu chứng bao gồm: tiểu gián đoạn, dòng nước tiểu yếu, bí tiểu, tiểu nhỏ giọt, tiểu buốt, đau khi xuất tinh, đau lưng, đau khi đại tiện, đau ở vị trí tế bào ung thư lan đến xương.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể, thăm khám trực tràng.
Các xét nghiệm: Kiểm tra kháng nguyên đặc hiệu với tuyến tiền liệt (PSA - một loại xét nghiệm máu), siêu âm, sinh thiết tuyến tiền liệt, Scan xương, chụp cắt lớp phát xạ (PET Scan) để xác định di căn.
Xét nghiệm di truyền, xét nghiệm công thức máu toàn bộ (CBC), bảng chuyển hóa toàn diện (CMP), chụp cắt lớp vi tính (CT Scan), siêu âm và phân tích nước tiểu (UA).
Các xét nghiệm bổ sung có thể được yêu cầu.
Việc điều trị phụ thuộc vào mức độ bệnh, tuổi và sức khỏe của bệnh nhân.
Lựa chọn điều trị bao gồm: "theo dõi thận trọng" (chờ xuất hiện triệu chứng mới điều trị), "giám sát hoạt động" (theo dõi sự biến đổi của bệnh bằng các xét nghiệm và sinh thiết tế bào ở từng giai đoạn bệnh), phẫu thuật, xạ trị, cấy hạt phóng xạ (Brachytherapy), liệu pháp hormone, hóa trị liệu.
Cho đến 50 tuổi, cứ 4 nam giới thì 1 người có một số tế bào ung thư ở tuyến tiền liệt. Đến 80 tuổi, tỷ lệ này tăng lên 1/2. Khi bạn về già, nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt của bạn tăng lên. Ở Mỹ, tuổi trung bình khi được chẩn đoán là 72.
Ung thư tuyến tiền liệt cũng là nguyên nhân hàng thứ 2 dẫn đến tử vong do ung thư ở nam giới Mỹ. Tuy vậy, không giống với các ung thư khác, bạn dễ bị chết cùng với ung thư tuyến tiền liệt hơn là chết vì nó. Trung bình, 1 nam giới Mỹ có 30% nguy cơ bị mắc ung thư tuyến tiền liệt, nhưng chỉ có khoảng 3% nguy cơ chết vì bệnh này.
Tuyến tiền liệt bao quanh cổ bàng quang phía nam giới và nằm phía sau xương mu và phía trước trực tràng. Chức năng chủ yếu của tuyến tiền liệt là sản sinh hầu hết chất dịch trong tinh dịch, gồm có dịch nuôi dưỡng và vận chuyển tinh trùng. Những ống dẫn nhỏ trong tuyến tiền liệt dẫn dịch tới niệu đạo, đường thoát nước tiểu từ bàng quang. Dịch này được giải phóng qua dương vật khi xuất tinh.
Đối với nhiều nam giới, chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt đáng sợ không chỉ vì nó đe dọa cuộc sống mà còn vì nó đe dọa đến khả năng tình dục của họ. Trong thực tế, hậu quả có thể có của điều trị - gồm rối loạn điều khiển bàng quang và rối loạn chức năng cương dương (liệt dương) - có thể khiến một số người lo lắng hơn chính bệnh ung thư.
Một tin mừng là nếu ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện sớm - khi nó vẫn còn khu trú ở tuyến tiền liệt - bạn có một cơ hội tốt để điều trị thành công với tác dụng phụ ít và nhất thời. Tuy nhiên, rất khó điều trị thành công ung thư tuyến tiền liệt đã di căn ra ngoài tuyến mặc dù các cách điều trị hiện nay có thể giúp kiểm soát được ung thư.
Đối với một số nam giới phối hợp điều trị - như là phẫu thuật, sau đó là xạ trị hoặc xạ trị cùng với liệu pháp hormon - có tác dụng tốt nhất. Việc điều trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Những yếu tố này gồm tốc độ tăng sinh của ung thư, mức độ di căn, tuổi và sức khỏe của bạn cũng như lợi ích và tác dụng phụ tiềm tàng của điều trị.
Chiếu xạ ngoài. Điều trị chiếu xạ ngoài dùng tia X năng lượng cao để tiêu diệt khối u. Một thiết bị được dùng để phát tia xạ. Tia xạ loại này có hiệu quả phá huỷ các tế bào ung thư, nhưng nó cũng có thể làm tổn thương mô lành lân cận.
Bởi vậy bước đầu tiên trong xạ trị là phải xác định chính xác vùng cơ thể cần chiếu xạ. Chụp 3 chiều thường được dùng để xác định chính xác vị trí của tuyến tiền liệt và cấu trúc xung quanh. Phần mềm hình ảnh của máy tính giúp các thầy thuốc chuyên khoa tìm được góc tốt nhất để chiếu chùm tia xạ. Bằng cách dùng kỹ thuật mới này - cho phép tập trung chùm tia xạ chính xác hơn - những liều tia xạ lớn hơn có thể được chiếu vào tuyến tiền liệt mà không gây tổn thương mô xung quanh.
Liệu pháp hormon. Khi bạn bị ung thư tuyến tiền liệt, hormon giới tính nam (Androgens) có thể kích thích tế bào ung thư phát triển. Loại Androgen chủ yếu là Testosteron. Liệu pháp hormon dùng thuốc để ngăn cơ thể sản sinh hormon nam. Nó cũng ngăn không cho hormon đến tế bào ung thư. Đôi lúc các bác sĩ dùng phối hợp thuốc để đạt cả hai mục đích này.
Khoảng 75% nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn muộn chọn cách điều trị này để làm chậm sự phát triển của ung thư tuyến tiền liệt. Vì cách điều trị này có hiệu quả làm thu nhỏ khối u, nên các bác sĩ dùng liệu pháp hormon trong một số trường hợp ung thư giai đoạn sớm - thường phối hợp với phẫu thuật và xạ trị. Hormon làm thu nhỏ khối u lớn vì vậy phẫu thuật hoặc xạ trị có thể cắt bỏ hoặc phá huỷ dễ dàng hơn. Sau những cách điều trị trên, các thuốc này có thể ức chế sự phát triển của các tế bào còn sót lại ở vị trí khối u.
Cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc. Phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt có tên là cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc là một lựa chọn khác để điều trị ung thư khu trú trong tuyến tiền liệt. Trong phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt tận gốc, phẫu thuật viên dùng các kỹ thuật đặc biệt để cắt bỏ hoàn toàn tuyến tiền liệt và các hạch lympho tại chỗ, trong khi cố gắng để lại cơ và dây thần kinh điều khiển tiểu tiện và chức năng tình dục.
Có hai phương pháp phẫu thuật để cắt bỏ toàn bộ tuyến tiền liệt là: sau mu và đáy chậu. Trong phương pháp phẫu thuật sau mu, tuyến tiền liệt được cắt đi thông qua một đường rạch ở vùng dưới bụng đi từ dưới rốn tới cách gốc dương vật 2,5 cm. Đây là cách phổ biến nhất để cắt bỏ tuyến tiền liệt vì 2 lý do: phẫu thuật viên có thể dùng đường rạch này để nạo vét hạch lympho ở khung chậu để xét nghiệm xem ung thư đã di căn chưa. Ngoài ra, thủ thuật này giúp phẫu thuật viên tiếp cận tốt với tuyến tiền liệt, dễ dàng giữ được dây thần kinh điều kiển chức năng bàng quang và cương dương. Với phương pháp đáy chậu mà các bác sĩ ít dùng hơn, đường rạch được thực hiện giữa hậu môn và bìu. Phẫu thuật đáy chậu này thường ít chảy máu hơn, và thời gian hồi phục ngắn hơn nếu bạn là người to béo.
Cấy hạt phóng xạ. Hạt phóng xạ được tiêm vào tuyến tiền liệt và đã trở nên phổ biến trong những năm gần đây như một cách điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Những hạt này, còn gọi là liệu pháp gắn phóng xạ, phân phối liều phóng xạ cao hơn chùm tia xạ bên ngoài.Khi cấy hạt, các triệu chứng tiểu tiện có xu hướng nặng và kéo dài hơn so với xạ trị bên ngoài. Tuy nhiên, các triệu chứng trực tràng thường ít xảy ra và ít nguy hiểm hơn. Ngoài ra, từ 30 - 50% bệnh nhân bị liệt dương.
Hóa trị liệu. Loại điều trị này dùng các hóa chất phá huỷ nhanh chóng tế bào đang tăng sinh. Mặc dù thường có hiệu quả trong điều trị ung thư ở những nơi khác trong cơ thể, hóa trị liệu không thành công trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt.
Khi các thuốc hóa trị liệu mới được triển khai, các thử nghiệm tiếp tục dùng hóa trị liệu một thuốc, phối hợp đa thuốc hóa trị liệu, và phối hợp hóa trị liệu với liệu pháp hormon. Các kết quả ban đầu là tích cực, nhưng vẫn chưa có kinh nghiệm lâu dài với các thuốc mới. Trong tương lai, liệu pháp gen hoặc liệu pháp miễn dịch có thể thành công hơn trong điều trị các khối u tuyến tiền liệt di căn. Công nghệ hiện nay hạn chế sử dụng các cách điều trị này ở một số cơ sở trên toàn quốc do sự an toàn của bệnh nhân.
Liệu pháp lạnh. Cách điều trị này phá huỷ các tế bào bằng cách làm đông lạnh mô. Những cố gắng ban đầu để điều trị ung thư tuyến tiền liệt bằng liệu pháp lạnh bao gồm đưa một đầu dò vào tuyến tiền liệt qua da giữa trực tràng và bìu (tầng sinh môn). Dùng một đầu dò vi sóng trong trực tràng để theo dõi thủ thuật, tuyến tiền liệt được làm lạnh để phá huỷ các tế bào ung thư. Kém chính xác trong theo dõi phạm vi làm lạnh thường gây tổn thương mô xung quanh bàng quang và các biến chứng lâu dài như chấn thương trực tràng hoặc các cơ kiểm soát tiểu tiện.
Gần đây, những đầu dò nhỏ hơn và những phương pháp chính xác hơn theo dõi nhiệt độ xung quanh tuyến tiền liệt đã được triển khai. Những tiến bộ này có thể làm giảm các biến chứng liên quan đến liệu pháp lạnh, làm cho liệu pháp lạnh hiệu quả hơn trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Mặc dù quá trình này vẫn tiếp tục, cần có thêm thời gian để xác định mức độ thành công của liệu pháp lạnh trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt.
Theo dõi. Xét nghiệm kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) trong máu có thể giúp phát hiện ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn rất sớm. Điều này cho phép nhiều nam giới chọn cách theo dõi là một biện pháp điều trị. Trong khi theo dõi (còn được gọi là quan sát, liệu pháp theo dõi hoặc liệu pháp trì hoãn), xét nghiệm máu thường xuyên, thăm trực tràng và sinh thiết có thể được thực hiện để theo dõi bằng chứng của tiến triển ung thư.
Trong thời gian theo dõi không có biện pháp điều trị nào được tiến hành - có nghĩa là không được dùng thuốc, xạ trị và phẫu thuật. Theo dõi có thể được đề nghị nếu ung thư của bạn không có triệu chứng, dự kiến là sẽ phát triển rất chậm, nhỏ và khu trú ở một vùng của tuyến tiền liệt. Theo dõi có thể đặc biệt thích hợp nếu bạn nhiều tuổi, có sức khỏe kém hoặc cả hai. Nhiều bệnh nhân sẽ có tuổi thọ bình thường mà không cần điều trị và ung thư không di căn ung thư hoặc gây các vấn đề khác. Nhưng theo dõi có thể cũng là một lựa chọn hợp lý đối với bệnh nhân trẻ chừng nào bạn còn biết được thực tế và luôn cảnh giác.