Viêm nội tâm mạc bán cấp nhiễm khuẩn là tình trạng viêm nội tâm mạc có loét và sùi, thường xảy ra trên một nội tâm mạc đã có tổn thương bẩm sinh hoặc mắc phải từ trước. Nếu không được phát hiện và điều trị sớm, bệnh sẽ gây biến chứng nghiêm trọng, có thể dẫn đến tử vong.
Sốt, nôn, mệt mỏi, khó thở, viêm khớp, mất thị lực đột ngột.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Cấy máu làm xét nghiệm, siêu âm tim (TTE, TEE).
Dùng kháng sinh phổ rộng từ 4 đến 6 tuần tùy loại vi khuẩn. Phẫu thuật cho các trường hợp suy tim kháng trị, hở van chủ, hở van hai lá nặng, tăng áp lực cuối tâm trương thất trái, block tim, áp xe trên van áp xe vòng van, thủng van tim, dò hoặc thủng các vách tim, nhiễm nấm, tắc mạch tái diễn và vi trùng đa kháng.
Đại cương
Viêm nội tâm mạc bán cấp nhiễm khuẩn là tình trạng viêm nội tâm mạc có loét và sùi, thường xảy ra (nhưng không phải bắt buộc) trên một nội tâm mạc đã có tổn thương bẩm sinh hoặc mắc phải từ trước.
Nếu không được phát hiện và điều trị sớm, bệnh sẽ gây biến chứng nghiêm trọng có thể dẫn đến tử vong
Các thể bệnh
Thể cấy máu âm tính
Người ta chỉ coi là cấy máu âm tính sau khi đã cấy máu từ 6-9 lần mà không thấy vi khuẩn mọc
Trong thể bệnh này thường có một số đặc điểm sau:
Hay gặp ở những trường hợp có tổn thương van động mạch chủ.
Thường kèm theo những biến chứng ở nội tạng nhất là thận và tim.
Hay có thiếu máu, giảm bạch cầu, tăng gamma globulin.
Diễn biến bệnh thường nặng và tỷ lệ tử vong cao mặc dù đã điều trị tích cực.
Thể do liên cầu khuẩn D
Gặp trong 5-10% các trường hợp.
Bệnh hay xuất hiện sau những nhiễm khuẩn tiết niệu - sinh dục.
Thường kháng lại liều Penicillin thường dùng do đó cần phải phối hợp Penicillin liều cao với Streptomycin.
Bệnh thường có khuynh hướng tái phát.
Thể do tụ cầu
Đường vào của vi khuẩn thường là qua da hoặc là qua hệ tiết niệu-sinh dục.
Hay gặp tổn thương ở van 3 lá.
Trên lâm sàng hay có những biểu hiện của suy tim không hồi phục.
Tụ cầu hay kháng lại kháng sinh nên bệnh nhân thường nặng, tỷ lệ tử vong cao.
Thể thận
Thường gặp trong khoảng 8 -12% trường hợp.
Có những triệu chứng nổi bật như đái ra máu, urê huyết cao, phù, tăng huyết áp.
Tiên lượng nói chung xấu.
Thể viêm nội tâm mạc trong bệnh tim bẩm sinh
Tác nhân gây bệnh thường là tụ cầu.
Thường gặp nhất là bệnh còn ống động mạch, do đó cần chú ý đến tiến triển đặc biệt của nhiễm khuẩn trong bệnh này. Cụ thể là nhiễm khuẩn thường diễn biến theo 2 giai đoạn: đầu tiên là viêm nội mạc động mạch giới hạn ở ống động mạch, sau đó nhiễm khuẩn sẽ lan tỏa đến nội tâm mạc và hình thành nên những tổn thương quen thuộc.
Thể viêm nội tâm mạc xảy ra sau khi phẫu thuật tim
Có thể gặp trong trường hợp phẫu thuật Blalock hoặc các phẫu thuật trên tim mở.
Thường bệnh biểu hiện sớm, từ khoảng 3 - 20 ngày sau phẫu thuật.
Về mặt triệu chứng thường chỉ sốt và cấy máu dương tính.
Nhiễm khuẩn ở đây là do tụ cầu kháng thuốc hoặc các chủng loại bất thường khác nên ít nhạy cảm với điều trị.
Dùng kháng sinh phổ rộng từ 4 đến 6 tuần tùy loại vi khuẩn
Vancomycine 15mg/kg IV mỗi 12 giờ, ưu tiên khi nhiễm tụ cầu vàng và các chủng liên cầu, trường hợp đề kháng Vancomycine dùng Daptomycine
Aminoglycoside: Gentamyicne 1mg/kg IV mỗi 8 giờ, ưu tiên khi nhiễm trực khuẩn Gr(-) hay cầu khuẩn và HACEK. Nếu kháng Gentamycine dùng Tobramycine 1mg/kg /8 giờ hay Amikacine.
Thường phối hợp hai loại Kháng sinh trên.Trường hợp còn nhạy cảm Methycilline thì dùng Oxacilline 2g IV mỗi 4 giờ.
Suy tim kháng trị, hở van chủ, hở van hai lá nặng, tăng áp lực cuối tâm trương thất trái, block tim, áp xe trên van áp xe vòng van, thủng van tim, dò hoặc thủng các vách tim, nhiễm nấm, tắc mạch tái diễn và vi trùng đa kháng.
Theo Bernad và Predergast khoảng 50% VNTMNK có chỉ định ngoại khoa, trong đó: Suy tim sung huyết 40%, nhiễm trùng huyết dai dẳng 20%, biến chứng tắc mạch 18%,Kích thước khối sùi lớn 22%,