Tá tràng là phần đầu của ruột non, có chữ C, vắt ngang qua đốt sống và được chia làm 4 phần theo hình dạng. Kéo dài từ môn vị của dạ dày đến góc tá tràng - hỗng tràng, tá tràng là một thành phần quan trọng trong hệ tiêu hóa vì là nơi dịch tụy và dịch mật đổ vào tại nhú tá lớn và nhú tá bé trên tá tràng. Viêm tá tràng tương tự bệnh loét dạ dày-tá tràng nhưng ít nghiêm trọng hơn.
Đau bụng trên hoặc vùng thượng vị (vùng bụng trên, ngay dưới ức), ợ hơi, ợ chua, buồn nôn, nôn, nôn ra máu, chất nôn có vẻ ngoài giống bã cafe, phân có màu đen, phân có máu, nóng rát trong lồng ngực.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Viêm tá tràng thường được chẩn đoán bằng phương pháp nội soi, máy chụp được đưa vào tận sâu trong dạ dày và phần đầu của ruột non.
Các loại thuốc thường được sử dụng để điều trị căn bệnh này là: thuốc kháng a-xít, thuốc kháng Histamin ở thụ thể H2( Cimetidin, Ranitidin, Famotidin), thuốc ức chế bơm proton (Omeprazol, Lansoprazol, Pantoprazol), Thuốc là dẫn chất Prostaglandin (Misoprostol).
Tá tràng là phần đầu của ruột non, có chữ C, vắt ngang qua đốt sống và được chia làm 4 phần theo hình dạng. Kéo dài từ môn vị của dạ dày đến góc tá tràng - hỗng tràng, tá tràng là một thành phần quan trọng trong hệ tiêu hóa vì là nơi dịch tụy và dịch mật đổ vào tại nhú tá lớn và nhú tá bé trên tá tràng.
Viêm tá tràng là hiện tượng phổ biến. Viêm tá tràng thường được chẩn đoán bằng phương pháp nội soi, máy chụp được đưa vào tận sâu trong dạ dày và phần đầu của ruột non.
Bệnh cũng giống như bệnh loét dạ dày-tá tràng nhưng ít nghiêm trọng hơn.
Các thuốc kháng a-xít:
Là các hợp chất vô cơ có khả năng trung hoà a-xít HCl, làm giảm độ chua của dịch vị. Trước đây có dùng Natri carbonat (NaHCO3, còn gọi thuốc tiêu mặn), hoặc Calci carbonat (CaCO3), ngày nay ít dùng. Hiện nay thường dùng nhôm Hydroxyd Al(OH)3, magiê Hydroxyd Mg(OH)2 hoặc các muối của magiê, nhôm ở dạng Phosphat, Carbonat, Trisilicat...
Các thuốc kháng Histamin ở thụ thể H2:
Là thuốc đối kháng tương tranh với Histamin tại thụ thể H2 nằm trên màng tế bào đảm nhận việc tiết ra a-xít ở dạ dày, Histamin không gắn được vào thụ thể làm cho dạ dày không tiết ra a-xít. Gồm có: Cimetidin, Ranitidin, Famotidin...
Các thuốc ức chế 'bơm proton':
Là thuốc có tác dụng ức chế một chất có tên là 'bơm proton' (thực chất là một enzyme có tên H+K+ATPase) nằm ở màng tế bào đảm nhận việc tiết a-xít ở dạ dày. 'Bơm proton' không hoạt động, a-xít không thể thoát ra khỏi tế bào để đổ vào lòng dạ dày tạo độ chua của dịch vị.
Đang sử dụng: Omeprazol, Lansoprazol, Pantoprazol.
Thuốc mới: Rabeprazol, Esomeprazol.
Thuốc là dẫn chất Prostaglandin:
Điển hình của thuốc nhóm này là Misoprostol. Không dùng điều trị mà được chỉ định phòng ngừa viêm loét dạ dày - tá tràng do phải sử dụng dài hạn thuốc chống viêm không Steroid (Aspirin, Ibuprofen, Diclofenac...).
Thuốc là Sucralfat:
Tên thuốc là Aucrose Aluminium Aulfate, để chỉ đây là hợp chất kết hợp đường (Saccharose hay Sucrose), nhôm Hydroxyd và các gốc sulfat. Khi uống vào dạ dày, Sucralfat biến thành chất nhầy bao phủ niêm mạc và cho tác dụng bảo vệ.
Thuốc là hợp chất Bismuth:
Trước đây khá lâu, nhiều hợp chất Bismuth được sử dụng nhưng rồi bị cấm do tích luỹ gây độc cho não. Hiện nay có 2 hợp chất Bismuth được dùng (tuy nhiên, một số nước châu Âu vẫn không dùng): Bismuth subsalicylat, Tripotassium dicitrato bismuthate (viết tắt: TDB, CBS). Bismuth có tác dụng kháng khuẩn Helicobacter pylori.
Ngoài các thuốc kể trên, trong điều trị viêm loét dạ dày-tá tràng, người bệnh còn có thể được chỉ định dùng thuốc hỗ trợ để giúp việc điều trị tốt hơn:
Thuốc an thần chống stress: Diazepam, Sulpirid.
Thuốc chống co thắt nhằm giảm đau: Atropin, Buscopan, No-spa...
Do phát hiện vi khuẩn Helicobacter pylori (HP) trong đa số trường hợp bị viêm loét dạ dày-tá tràng (70-90%) nên trong điều trị có đặt vấn đề tiệt trừ vi khuẩn này. Có một số ghi nhận như sau:
Chỉ có một số kháng sinh có hiệu quả (Tetracyclin, Amoxicillin, Metronidazol, Tinidazol, Furazolidon, Clarithromycin).
Không được dùng một kháng sinh đơn độc mà phải kết hợp hai kháng sinh trở lên.
Các phác đồ điều trị bằng kháng sinh hiện nay vẫn còn tiếp tục được nghiên cứu, không có phác đồ nào đạt hiệu quả 100%.
Trong điều trị tiệt trừ HP, cần lưu ý:
Phải làm xét nghiệm chẩn đoán xem có hiện diện HP hay không.
Phải dùng thuốc đúng phác đồ về thuốc kết hợp, liều lượng, thời gian. Để tiệt trừ HP, thời gian dùng thuốc thường là 7-14 ngày.
Phác đồ hiện nay thường kết hợp: 3 thuốc (trị liệu 3 thuốc), 4 thuốc (trị liệu 4 thuốc).
Sau khi điều trị, cần làm xét nghiệm xem tiệt trừ HP hay chưa.
Do sử dụng kháng sinh nên có thể bị tác dụng phụ (30% bị tác dụng phụ và 20% phải ngưng điều trị).